SAO GỌI LÀ ĐI 'SỤC' CÁ?
Nhớ Thượng Sĩ Trầm -Trại 4 Ái Tử
Chào bạn đọc
Thật ra không biết tại sao hồi đó lúc ở tù cải tạo tại Trại 4 Ái Tử, chúng tôi gọi là đi "SỤC CÁ"?! tai người viết nghe sao nói vậy. Theo suy đoán có thể tiếng gọi "THỤT CÁ" cũng nên? Cũng có thể từ là tiếng "SỤC Cá" cũng nên?
Nhưng tại sao mấy người trong lán 2 khối 4 chúng tôi gọi là "Sục" cá? Chuyện này khó trả lời? Nhưng dù sao vẫn còn một số người như Trần đình Côn người Gio Linh vừa qua Mỹ diện HO đợt cuối cùng sau này làm chứng cho tiếng "Sục". Côn là tổ trưởng, may mắn qua được Mỹ. Còn Lán Trưởng Nguyễn danh Huấn cũng là người Gio Linh, sau ngày ra trại, sinh sống tại Suối Nghệ thì không may, anh qua đời sớm do bệnh tật. Còn một người ngang lứa ngang cấp là Nguyễn Sở người Vĩnh Lại thì bặt vô âm tín bao lâu nay? Nhưng có một nhân vật già hơn, thế hệ tiền bối, tuổi ngang ba mạ chúng tôi, đó là Thượng Sĩ Trầm (tôi quên họ) thì nay người viết đoán có thể không còn trên cõi thế gian này nữa?
Người viết xin vào câu chuyện kể để nhớ lại một thời tạm gọi là "hàn vi" trong trại tù cải tạo số 4 Ái tử khoảng cuối 1975...
Bác Trầm người tù già nhất Lán 4 đang ngồi nhả khói. Điếu thuốc to tướng vấn bằng giấy báo. Thuốc bên trong chẳng phải là thuốc rê hay cẩm lệ nhưng làm từ lá cây lá ngấy- loại dây leo nấu nước uống khá lành. Túng quá, thuốc rê gia đình thăm nuôi đã hết từ lâu. Làng Vĩnh Lại bên kia con sông Thạch Hãn nhưng giờ đây xem như là "diệu vợi" đối với ông Trầm. Ngang đây tôi phải nhắc lại một chuẩn úy già, nhưng tôi khá ân hận đã quên mất tên của bác đó. Bác thường tâm sự cái tội "bị lên chức Chuẩn Úy" nên bị "liệt vào diện sĩ quan" thế là địa phương gửi lên trại 4 "cải tạo". Người kể chuyện vẫn nhớ làm sao dáng đi lom khom, lưng hơi còng và ốm o của một người chuẩn úy già bị đi tù "cải tạo" khá oan do cái tội "lên chức". Chính bác từng tâm sự với tôi cái oan nhất là chỉ "lên lon mấy ngày" thì chuyện 30 tháng Tư ập đến?. Tác giả nhắc đến ông chuẩn úy cùng ông thượng sĩ già do một kỷ niệm khó quên là chính hai người đã "CHẾ" ra thứ thuốc hút từ lá "ngấy khô" từng giúp chúng tôi qua cơn thèm thuốc...
Như vậy hai bác, một chuẩn úy vừa lên một thượng sĩ thâm niên là hai bác ở tù lớn tuổi nhất trong lán, kể cả toàn khối 4 chúng tôi. Toàn bộ người trong lán phần nhiều là trung đội trưởng, chuẩn úy mới ra trường "trẻ măng". Chúng tôi không bảo nhau nhưng ai nấy đều xem hai bác là hai người cha già. Bác Trầm tuy là thượng sĩ nhưng là thượng sĩ thâm niên công vụ, thế là đối với làng, Bác vẫn bị đem lên đây với hai tiếng là "học tập".
Gần bác Trầm nhất là Sở và tôi. Thằng Sở lạ lắm, hắn nói rất nhanh, khó nghe kịp. Một lần đi rừng, thằng Sở lại là đứa đi nhanh nhất, lúc nào cũng dẫn đầu toán.
dép lốp bộ đội một thời người QT gọi là dép Bình Trị Thiên dành cho bộ đội VC nhưng sau này phát cho tù tại Ái Tử để đi rừng hay đi lao động ngoài bắc
Bước chân thằng Sở mỗi lần lên rừng chặt gỗ, hắn đi thoăn thoắt phải gắng đuổi theo mới kịp. Mỗi lần đôi dép lốp kiểu bộ đội của Sở bị trật quai, hắn liền ngồi xuống xâu lại. Cái nẹp nhọn lép, xỏ qua khe hẹp của lỗ dép. Hai hàm răng của Sở mạnh như hai mũi kìm cắn chặt vào đầu cái nẹp nhọn, một đầu có kẹp một phần sợi dây quai cao su kia. Thế rồi hai bàn tay rắn chắc mạnh bạo cầm thân dẹp kéo ngược lại phía dưới để xỏ sợi quai dép lại như cũ...bạn đọc để ý lỗ cho sợi dây cao su luồn qua không phải dễ xỏ? nếu rộng lỗ để xỏ dễ dàng thì làm sao dây dép tự giữ chặt được mà đi? Người kể chuyện có chút lan man qua đôi dép "Bình Trị Thiên" của mấy ông VC hồi đó do có bạn đọc không hiểu cách xỏ quai dép của bộ đội VC ra sao đó thôi. Nói thì chậm, ngược lại Sở làm rất thạo và nhanh, tôi khó lòng bắt chước. Sở bước theo toán đi rừng lẹ làm sao? chút chi hắn lại tiến lên trước chúng tôi. Thời gian đó, không riêng gì Sở, chúng tôi đều được phát dép lốp đi rừng. Chỉ có các trại ở Ái Tử mới nhớ cái tên đó là "dép Bình Trị Thiên". Sở hơn chúng tôi nhờ tài xâu lại quai dép, không ai làm nhanh hơn hắn. Đường mùa mưa trơn trợt dép lốp trật quai lia lịa. Đoạn đường lên rừng hay từ rừng về mùa mưa, có khi chúng tôi phải ba bốn lần xâu lại quai dép.
Một ngày vào cuối tuần, như chợt khám phá một điều thú vị, ông gọi giật phắc tôi:
-MI ĐI SỤT CÁ KHÔNG Phúc! ?
-DẠ ĐI CHỚ.
-KÊU THẰNG SỞ ĐI VỚI.
Bác không quên thằng Sở do hắn cũng là người cùng làng Vĩnh Lại hơn nữa tất cả ba người đều cùng tổ với nhau. Trần đình Côn dĩ nhiên không ai dám kêu hắn đi sợ liên lụy...
Những ngày ở trại 4 khoảng gần cuối năm 1975, thời gian đầu Bộ Đội miền Bắc còn cai quản tù binh chúng tôi không khắc nghiệt như khi bị trao qua Công An "quản lý" như sau này. Vòng rào lỏng lẻo, cuối tuần chúng tôi còn đi "cải thiện linh tinh" kiếm chút gì giúp cho bao tử. Chỉ có đêm về là lo có mặt là được. Nguyễn văn Sở và người viết đồng ý ngay với ý kiến chợt nảy sinh của ông. Cuối tuần, không có gì chỉ ngồi thèm thuốc đến chết người thôi. Ngoài kia là căn nhà thăm nuôi , Trại mới xây xong, vắng ngắt giữa cảnh núi đồi hiu quạnh. Đến kỳ thăm nuôi, căn nhà vãng lai đó mới vui hơn một ít. Người nhà của tù về rồi, sẽ trả lại quang cảnh vắng ngắt như mọi ngày.
Thời gian đầu, lúc bộ đội coi tù Trại chẳng có cổng gác. Mà chẳng cần ai gác do chưa có vụ trốn trại nào. Cái hàng rào kẻm gai lưa thưa cho có. Thời gian này rất lạ, ở trên nhà cán bộ chẳng ai lo chuyện tù trốn cả. Trần đình Côn, hắn là toán trưởng có ba hắn nghe đâu đi bộ đội tập kết có quen trại trưởng Trại 4 tên Thú. Đúng vậy, có một ngày ai đó chỉ cho người viết hình ảnh một người bộ đội già tay dắt một chiếc xe đạp giàng đi ngoài hàng rào. Ông ta tiến đến hướng khu nhà cán bộ. Ông là cha của Trần đình Côn tổ trưởng trong lán. Ông đi tập kết về lại QT ông tới thăm thằng con trai trong tù. Ông là bạn ông Thú trại trưởng cùng bộ đội lâu năm. Có cha đi tập kết, cũng như nhiều người khác, chuyện Côn về sớm hơn chúng tôi là lẽ thường.
Lán trưởng (nhà trưởng, mỗi khối có 4 nhà) chúng tôi là anh Nguyễn danh Huấn người Gio Linh. Mỗi lán có nhiều tổ. Mỗi khối có nhiều lán. Lán tức là cái nhà tranh lớn chứa mấy chục người tù. Còn khối có bốn lán như vậy. Tôi còn nhớ nụ cười hiền hòa của anh Huấn. Người anh điềm đạm, ít khi cáu gắt với ai. Đêm đêm vừa kéo hơi thuốc lào vừa kể chuyện đơn vị thuộc Sư Đoàn 23 trước ngày "TAN HÀNG...CỐ GẮNG". Anh chỉ là trung đội trưởng, rồi chuyện về lại địa phương...Làng Xuân Mị, Gio Linh quê anh. Khi người sĩ quan trẻ đó trở về phải nhọc nhằn đối phó với sự kỳ thị của địa phương. Anh Huấn kể lại có những đêm HỌP DÂN hay đội đoàn, anh phải đối phó với bao hằn học, gay gắt. Trước đội đoàn hợp tác tại quê anh với lời kể lại chất chứa bao cay đắng do anh phải QUỲ mỗi lần Hợp Tác hay Đội họp. Lên được trại 4, tuy là tù nhưng anh Huấn cảm thấy thoải mái hơn ở địa phương nhiều. Nguyễn danh Huấn, Trần Côn đều về trước tôi. Hai người đều về Sơn Mỹ Hàm tân trong thời gian đầu ra trại. Tội cho anh Huấn mất sớm ở Suối Nghệ nên không đi Mỹ được. Phần Côn lận đận từ vùng kinh tế mới này hay lao đao đi tìm nông trường nọ cuối cùng Côn cũng may mắn sang được Mỹ trong các đợt H.O. gọi là "nạo vét" sau cùng.
***
Bác Trầm dẫn thằng Sở và tôi đi ra khỏi trại bằng hướng khác do sợ cán bộ thấy. Ngày nghỉ cuối tuần chẳng ai có việc. Thời gian này còn "dễ thở", T chẳng có vệ binh (bộ đội) nào canh chừng vào ngày nghỉ cuối tuần. Thế nhưng chẳng nghe ai trốn trại? Có thể ai cũng hi vọng bị giam sau một thời gian "ngắn" để được về nhà?
Ba người chúng tôi lầm lũi, đi tắt qua hướng Nại Cửu Phường, nhắm ra hướng phía chùa Sắc Tứ và Căn Cứ Ái Tử cũ...
Một vùng đồi núi càn, lau lách rậm rạp. Quang cảnh một vùng hoang vu không có bóng người ngoại trừ mấy trại tù vừa mới lập. Mấy con đường đất đỏ ngày trước chưa mất dấu. Cây leo và bụi rậm chưa phủ hết xác mấy chiến xa của mặt trận vừa qua. Căn cứ Ái Tử chỉ còn là những tấm ri sắt cong queo bị xé toạc bởi đạn pháo. Những hầm chứa đầu đạn 105 ly và 155 ly bị nổ tung rơi vải tung tóe. Ông Trầm bảo Sở và tôi kiếm 2 đầu đạn 105 ly chưa bắn rồi vác theo ông. Cả ba người lầm lũi bước về lại hướng núi nơi có rất nhiều hố bom B 52 giờ đã trở thành những cái hồ nho nhỏ. Vác hai đầu đạn không chưa hề có ngòi nổ nên không thể nổ được. Tới mấy cái hố bom rồi, bảo chúng tôi dừng lại.
Cái que sắt khá nặng có một đầu nhọn do thằng Sở vác theo, không ngờ giờ đây mới bắt đầu có ích. Ôi Cái cảnh "điếc không sợ súng" là giây phút đó. Liên tục đâm cái đầu sắt nhọn vào phẩn miệng quả đạn thật quả là chuyện liều. Không liều làm sao có cá ăn. Do đây là cơ hội "cải thiện" mà đã là tù thì làm gì còn chuyện sợ chết. Đã "cùi thì không sợ Lở" ý nghĩa cuối cùng là liều. Thật ra theo kinh nghiệm pháo binh, chỉ có đầu nổ gắn vào mới làm cho đầu đạn có sức nổ được. Theo lệnh ông Trầm hai đứa chúng tôi thay phiên nhau dùng cái que sắt nặng đó liên tục đục vào lỗ đầu quả đạn pháo vị trí sẽ gắn đầu nổ nếu như quả đạn sắp được bắn đi. Sở và tôi, bậm môi nghiến răng liên tục thụt cái đầu nhọn que sắt dần hồi khai thông qua được lớp nhôm dày đi vào phần chứa thuốc nổ bên trong. Một lớp bột chất nổ màu vàng bên trong đã thành hình.
Bác Trầm đốt một vài que củi xong lấy than hồng thả vào lớp bột thuốc nổ bên trong miệng quả đạn. Người yếu bóng vía làm sao dám làm chuyện này hay dám đứng gần bên?
Bác Trầm trấn an:
-KHÔNG RĂNG MÔ ! (không sao đâu)
Bác nói một cách "chắc ăn" như đã rành rọt từ bao đời. Bác chẳng sợ do bác biết không hề gì. Lớp bột thuốc nổ bên trên bắt đầu bén lửa. Tôi chưa hết cảm giác run sợ lúc đó. Cứ tưởng tượng quả đạn nổ tung thì banh xác hết cả ba người.
Cơn run của tôi chưa hết, thì đầu đạn bắt đầu bén lửa cháy phùn phụt lên cao. Bác đợi cho làn khói trắng trên miệng quả pháo bốc lên độ cao vừa ý, xong vội ôm quả đạn đan cháy lội ra giữa hố bom và cắm ngược quả đạn xuống lớp bùn. Quả đạn được sức cháy nên không tắt đi vẫn tuôn những làn hơi nghe "bùm bụp" bắn lên từ đáy miệng hố bom.
Thì ra Bác đã kinh nghiệm chuyện này từ lâu, có điều kinh nghiệm này của bác không biết lúc nào?
ÔI NHIỀU CÁ QUÁ ĐI !
Quả đạn bắn hơi, sôi sùng sục giữa hồ non nửa giờ thì ngưng hẳn. Một cảnh tượng trước mắt, chúng tôi lần đầu tiên mới thấy trong đời!...
Ôi thôi! bao nhiêu thứ cá trong cái hố bom nhỏ, nói chung bất cứ sinh vật nào núp sống dưới mặt nước này bao lâu nay đều lo ngoi lên mép hồ để tìm hơi thở. Nhiều nhất là cá tràu, cá trê... chúng thi nhau cằn lên mép cỏ để tìm sống. Chúng thực sự say thuốc súng không thể nào ở nán lại trong làn nước sặc mùi thuốc khói súng vừa đốt. Mấy con rạm, con đam đều chung số phận, chúng thi nhau bỏ nước bò lên. Ba người chúng tôi, hỉ hả thi nhau bắt cả bỏ vào mấy cái bao cát nylon xanh của Mỹ.
Thật là một "CHIẾN CÔNG" lần đầu tiên trong đời người viết mới chứng kiến đối với loài cá. Những con cá thành hình từ ngày TÀN CUỘC CHIẾN trong mấy cái hố sau cái cảnh bom rơi đạn lạc. Ngày tàn cuộc chiến, sau hai ba mùa mưa rơi trên miền đất khổ. Nước hố bom đã định hình một cảnh sống tái sinh. Hố bom cũng là hồ cá cỏn con lẫn trong những vùng đồi hoang dại mà ngày xưa từng ầm vang tiếng bom rền đạn réo. Tôi có ngờ đâu cái cảnh SỤT CÁ HỐ BOM như ngày hôm đó lại mang lại niềm vui cho chúng tôi khi người tù được cá.
Từ năm 1977 chúng tôi bị đi đày ra Thanh Hóa cho đến khi vào lại Ái Tử và vô Bình Điền thì mất tin bác Trầm. Có thể bác đã được về trước, thời gian chúng tôi còn ở tại Thanh Hóa. Bác không bị đưa đi rừng lim Thanh Hóa do già yếu.
Cả nửa thế kỷ qua đi, chắc hẳn năm này Bác chẳng còn trên cõi thế này nữa? Có thể lắm? Do Bác ngang cùng thế hệ với ba mẹ tôi. Nhớ bác Trầm, người kể chuyện không bao giờ quên làn khói thuốc lá ngấy bay bay, rồi hình ảnh mấy cái hố bom bên bụi bờ lau lách đìu hiu cạnh trại tù Ái Tử năm nào./.
ĐHL 21/1/2025
nhớ trại 4 Ái Tử
edit 24/8/2025 San Jose USA
No comments:
Post a Comment