Monday, August 11, 2025

John E. Steinbeck- Trên Đường Thiên Lý (1)

 



   Chiếc Hudson đời cũ, người, đồ đạc, chất cao ngất . Tiếng cót két, rên rỉ, xe gắng bò đến Sallisaw xong quay sang hướng tây.  Mặt trời làm lóa cả mắt.  Al Joad vẫn giữ đều tốc độ trên con đường bê tông do cậu ta biết bộ nhún xe không  nguy  lắm . Sallisaw đến Gore mất hai mươi mốt dặm, chiếc Hudson đang chạy ba mươi lăm dậm một giờ . Gore đến Warner mười ba dậm, Warner tới Checotah mất mười bốn dậm nữa; Từ Checotah tới Henrietta, khá xa, tới ba mươi bốn dậm đường, nhưng phải gắng mà lết để tới được một thị trấn khá đúng nghĩa với nó -cần mười chín dậm nữa từ Henrietta đến Castle . Giờ đây mặt trời đã quá đỉnh đầu, cánh đồng hai bên đất đỏ chóe, không khí như sôi lên, lung linh dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời .



    Al. làm tài xế, đang cầm chắc tay lái. Nét mặt anh khá căng thẳng. Hầu như toàn bộ người Al đặt vào hết cho chiếc xe . Đôi mắt chẳng hề ngơi nghỉ, Al hết nhìn đường lại liếc xuống bảng điều khiển. Al lại đặt mình vào tình trạng của máy xe, từng tế bào trong đầu óc anh chàng đang lắng nghe cỗ máy xe từng hồi trở chứng... từng tiếng cọc cạch lạ tai, tiếng phì phò như phản kháng của máy đều báo trước một biến cố, có thể làm xe nằm liệt giữa đường. Rõ ràng giờ đây anh chính là "linh hồn" của chiếc xe vậy.




    Bà nội, ngồi cạnh Al., bà vừa ngủ gà ngủ gật lại nói lảm nhảm gì đó trong cơn mơ. Có lúc bà nội cũng biết hé mắt theo dõi hướng trước, rồi lim dim ngủ lại. ngồi sát bên , một khuỷu tay để ra thành cửa, da tay Má rám đỏ dưới ánh nắng rát bỏng. Má cũng hướng mắt nhìn về trước, nhưng mắt bà có ánh nhìn vô định, chẳng nhìn con đường, chẳng ngắm bao cánh đồng lướt qua, cùng mấy trạm xăng, kể cả mấy quán ăn bên đường. Tất cả, Má chẳng hề liếc mắt nhìn khi chiếc Hudson lướt qua.

    Al nhúc nhích đổi lại thế ngồi trên chiếc ghế lái hư cũ. Bàn tay anh ta xoay xoay trên tay lái, chợt nghe tiếng anh chàng thở dài:

                        -Tiếng máy nghe rắc rối lắm rồi đây! nhưng con nghĩ cũng qua thôi. Có Chúa mới biết được số phận chiếc xe này khi leo lên dốc với gánh nặng như vầy. Từ đây tới California còn biết bao ngọn đồi nữa hả Má?!

   Má chậm chạp quay đầu lại nhìn Al., ánh mắt bà trở lại nét sinh động.
                -Theo Má, có thể còn nhiều dốc lắm.
                -Dĩ nhiên Má không biết. Nhưng nghe người ta nói còn nhiều dốc và núi cao nữa, toàn là núi lớn không à.

    Trong giấc mơ, tiếng bà nội rên rỉ, than van một hồi dài.
  Al tiếp tục than:
                -Leo mãi như vậy thì  sẽ cháy máy xe thôi , hay là nhà mình nên quăng bớt đồ đi cho nhẹ xe hả Má. Đúng ra mình không nên chở thêm ông thầy đạo đó.

                -Trước khi đi chúng ta hứa sẵn lòng cho ông theo rồi mà? Má tiếp lời con trai.

                -Thầy sẽ giúp chúng ta nhiều con à.

     Vừa trả lời con trai, mắt bà tiếp nhìn con đường chói chang ánh nắng.

    Al - một tay lái, tay kia nắm cần số đang run bần bật. Anh coi bộ khó tìm ra câu nói nào nữa. Từng chữ như âm thầm uốn tròn trong miệng, bật lớn ra tới Má:
                            -Má...
    Bà chậm rãi quay lại con trai, đầu hơi lắc lư khi chiếc xe đang chạy.
                    -Má, má sợ lắm phải không? Má đang lo nghĩ nơi nhà mình tới phải không má?
    Mắt người mẹ như vương chút gì tư lự:
                -Má...cũng hơi lo con ạ.
                -Không phải là chuyện sợ sệt, má đang nghĩ hoàn cảnh nơi đó ra sao để đối phó, để bắt tay vào việc đó chứ.

                -Không phải má đang lo ở đó không giống như chúng ta nghĩ, không phải má đang sợ nơi mình tới sẽ không tốt hả má?

            -Không phải thế đâu! bà nhanh chóng chối bỏ.

                - Má chưa hề nghĩ thế.  Con cũng đừng nên nghĩ thế, Má đây cũng không nên thế. Thiên hạ sống đông đúc nơi đó. Hòa nhập vào cuộc sống nơi hàng ngàn con người đang ở  với nhau, gia đình ta cũng là một, nếu má muốn hòa nhập với họ. Ngay con còn trẻ, con có thể hòa chung vào cuộc sống mới nơi đó cũng dễ dàng thôi. Nhưng đây là con đường bắt buộc má phải đi, đây là con đường mà mọi người phải đi, nếu muốn mau có xương heo thịt heo mà ăn đó con.

    Mặt Má chợt đanh lại:

                -Má có thể thực hiện, nhưng phần má làm ngang đây, má không thể làm nhiều hơn thêm nữa. Người ta sẽ buồn phiền nếu má làm nhiều hơn thế. Trong tâm tư má hiểu sâu xa về chuyện này con à.

    Bà nội lại ngáp dài, chợt bà mở mắt ngơ ngác nhìn quanh...
                -Ta  muốn đi ngoài, Chúa  ôi!
                -Hãy ráng chút nữa nội ơi, lên dốc sẽ có cái chòi nghỉ bên đường đó mà.
                -Chòi hay không chòi ta muốn xuống thôi, con nghe chưa?

 Nội tiếp tục rên rỉ:
                -Nội muốn xuống, nội muốn xuống...



    Al nhấn thêm ga, vừa ngang cái chòi lá bên đường, cậu liền dừng lại. Má mở cửa, ì ạch kéo bà già xuống vào trong mấy bụi cây gần đó. Tay Má gắng giữ cho Nội khỏi té khi dìu bà ngồi xuống đất.

    Trên đống đồ cao ngất, những khuôn mặt cháy nắng do họ chẳng biết trốn vào đâu. Tom, Thầy Casy, Noah, Bác John, tất cả mệt đừ, đầu rủ uống. Ruthie Và Winfiel leo từ thành xe  xuống, núp tạm trong bụi. Connie đỡ vợ, Sharon xuống thật nhẹ. Trong bạt che, Nội đã thức, ông thò đầu ra ngoài nhưng mắt còn mơ màng chưa tỉnh.

     Nhìn mọi người xong dần dà Ông nhớ ra:

                -Nội muốn xuống không? Tom gọi ông.

    Nội hướng cặp mắt bơ phờ:
                        -Thôi.
  Thoáng chốc, sự giận dữ trở lại trong đôi mắt ông nội:
                -Ta đã nói ta không đi. Ta muốn ở lại như Muley kia kìa.

    Ông chỉ nói được chừng này thì phải ngưng. Má đang dìu bà leo lên đoạn bờ sông lên con lộ.
                    -Tom!
 Bà kêu con trai.
                    -Con lấy mớ xương heo, má để dưới tấm bạt. Nhà mình phải ăn một ít.

    Tom kéo cái nồi, chuyền tới từng người. Cả nhà đứng bên đường, cùng nhau gặm những khúc xương heo chỉ lẫn ít thịt còn sót lại trên những khúc xương đó.

Pa coi bộ khoái chí:
                - Cơ may còn đem theo những thứ này đây.
                    -Leo được lên dốc kia chắc khó lắm. Nước cất đâu rồi?
                    -Sao bà không lo chuyện này? Tôi đã rót sẵn cho từng bình rồi mà?


    Pa leo lên thành xe nhìn vào trong bạt.
                -Không có đây, hay chúng ta quên rồi ?
Cơn khát đến tức thì. Winfield rên rỉ trước tiên,
                -Con muốn uống, con muốn uống?

    Người lớn liếm môi. Ý thức về cơn khát đến thật tình cờ.   Mối hoảng loạn nhỏ bé bắt đầu nảy sinh...
    Al Joad cảm nhận được sự sợ hãi nào đó bắt đầu nhen nhóm:
              -Trạm đầu tiên chúng ta tới chắc là có nước, cần mua xăng nữa.
Cả nhà lại leo lên xe. MÁ đỡ bà Nội lên, xong ngồi cạnh bà. Al nổ máy, chiếc xe tiếp tục lên đường.

                                                    






    Từ Castle đến Paden mất hai mươi lăm dặm đường. Bóng ác tà vượt qua khỏi thiên đình bắt đầu nghiêng bóng. Nắp két nước trước xe lại tiếp tục nhúc nhích, làn hơi phun ra nghe rin rít. Gần Paden có căn lều trọ bên đường, trước nó có hai bơm xăng. Trong hàng rào có vòi nước cùng một chậu rửa mặt. Al cho  xe len vào xong hướng mũi xe ngay vòi nước. Vừa lúc, một gã mập mạp, tay cùng mặt đỏ ửng. Hắn ta từ chiếc ghế cạnh bơm xăng bật dậy tiến tới phía họ. Gã bận cái quần treo nhung, to sợi; cái áo thun polo; chiếc mũ bảo vệ đầu bằng carton, sơn màu bạc. Sóng mũi, dưới mắt gã, lốm đốm mồ hôi,  tạo thành dòng ngay trong các nếp nhăn vùng cổ. Gã chầm chậm tiến tới chiếc xe, ném cái nhìn xoi bói, hung dữ:

                -Này mấy người có mua gì không? Xăng hay đồ?

    Al Joad là người ra khỏi xe trước, anh dùng đầu ngón tay mở nắp két nước, xong lách bàn tay thật nhanh tránh làn hơi nóng.
                        -Tôi cần mua xăng thưa ông.
                        -Có tiền không?
                            -Chắc hẳn là có rồi, bộ ông nghĩ chúng tôi xin sao?

    Nét hung dữ của gã bán xăng vội biến mất trên khuôn mặt phì nộn kia.
                -Ồ! Được thôi các bạn, cứ lấy nước đi.
Gã  nhanh nhảu giải thích:
                    -Đường lúc này đầy loại người ghé vào xin nước, làm bẩn nhà cầu, rồi sau đó, lạy Chúa ...còn ăn cắp vài thứ chẳng mua tí gì. Họ chẳng còn đồng nào mà mua. Chỉ vào  xin cho được một gallon xăng rồi tiếp tục đi.

    Tom cáu kỉnh thả đồ xuống đất tiến tới gã mập:
                    -Chúng tôi có trả tiền.
                    -Khỏi phải lo cho không chúng tôi. Chúng tôi cũng không đòi hỏi hay xin xỏ gì ông cả!

                    -Ta không có ý đó với các bạn đâu.
Gã mập chống chế. Mồ hôi gã lại tiếp tục ứa ra dưới cánh tay áo polo ngắn:
                -Cứ lấy nước đi nhé, nếu các bạn cần cứ tự nhiên dùng nhà cầu.

     Winfield lại vòi nước. Cậu bé ngửa cổ vào đầu vòi, uống một cách thoải mái, lại để nước tuôn từng dòng trên đầu và mặt:
            -Nước chẳng mát... cậu bé la lên.


            -Ta  chẳng biết họ sẽ tới nơi nào...

    Gã mập tiếp tục câu chuyện. Sự ca cẩm của gã giờ thay đổi bằng sự trao đổi với gia đình Joad.

                -Hàng ngàycó tới năm mươi, sáu mươi chiếc xe chở đầy người. Thiên hạ đi đâu về hướng tây? con cái, vật dụng gia đình chất hết trên xe. Họ về đâu? Họ làm gì ở đó ta chẳng hiểu.
                    -Số người đó cũng giống như chúng tôi đây vậy, Tom tiếp lời
                    -Họ đi tìm đất sống, tìm cách hội nhập vào vùng đất mới, chỉ có thế.
                    -Ồ, ta không biết vùng đất họ tới tên là gì? Ta hoàn toàn không biết. Nơi đây ta cũng vậy, Ngay đây, ta  cũng cố gắng hòa mình vào cuộc sống. Có chuyện đáng nói,  chẳng có chiếc xe sang, to lớn nào ghé như vậy không? hoàn toàn không, thưa ông bạn. Những chiếc xe kia họ luôn ghé lại mấy trạm xăng lớn hơn, sơn vàng trong thành phố thôi,  không đời nào họ ghé những chỗ tồi tàn như đây cả. Chỉ có đám người ùn ùn ra đi kia mới ghé đây thôi, thế nhưng chẳng ai mua nổi thứ gì!?


   Al Joad sơ ý làm bật cái nắp két nước lên cao, nó văng lên khoảng không để lại phía dưới tiếng hơi nước phun lên cao cùng tiếng bùm bụp của két nước nóng bỏng. Trên mui, con chó săn tù túng chịu đựng, rón rén bò tới cạnh đống đồ nhìn ra. Tiếng nó rên ư ử nhìn vòi nước. Bác John thấy thế, leo lên xe xách gáy con chó đem nó xuống. Mấy cái chân con chó giò cứng đơ, nó loạng choạng lết tới liếm láp chút nước bùn dưới vòi. Có những chiếc xe chạy vụt qua trên xa lộ, loang loáng dưới ánh nắng, thổi làn gió nóng hừng hực vào trạm xăng. Al. tiếp tục lo đổ đầy két nước.

    Gã mập tiếp tục nói:

                    -Thật ra ta chẳng mua bán được gì với khách giàu có, chuyện mua bán ta chỉ có với khách nghèo thôi. Đúng, họ dừng đây và đổi đồ lấy xăng mà đi. Đi lui phía sau với ta, ta sẽ cho ông bạn thấy những thứ mà số người nghèo kia đổi chác với ta. Nào giường nào xe đẩy trẻ con, nào nồi niêu song chảo.. . Có gia đình phải đổi con búp bê con họ đang chơi để đổi lấy một gallon xăng. Giờ ông bạn xem ta phải làm gì với những thứ vụn vặt này? mở tiệm bán rác ư? Tại sao có gã đưa ta đôi giày chỉ lấy môt gallon xăng? Và nếu như ta là gã kia ta dám cá ta có thể đổi được ...

    Gã chợt liếc nhìn Má và thôi nói.

    Thầy Jim Casy vừa vò ướt đầu tóc, những giọt nước còn nhỏ xuống thành hàng trên vầng trán cao, cần cổ gân guốc của ông cũng ướt, chiếc áo cũng vậy. Ông tiến tới cạnh Tom:

            -Không lỗi lầm gì nơi họ cả, thầy lên tiếng...làm thế nào để bạn phải bán cái giường bạn ngủ cho một thùng xăng đầy đó?

    -Ta biết là không phải lỗi lầm nơi họ. Mọi người nói chuyện với ta đều có một lý do quá ư khẩn thiết. Nhưng cái xứ họ tới tên gì? đó là điều ta rất muốn biết. Tình cảnh phải ra sao khi con người không còn sống được. Nông dân lại không còn sống được với nghề nông. Ta hỏi ông, tình cảnh như vậy thì làm sao? Ta không thể nghĩ ra. Ta hỏi bất cứ ai họ đều không nghĩ ra? Cái người đổi ông đôi giày kia đúng ra đôi giày đó sẽ giúp gã đi được hàng trăm dặm đường. Ta không thể hiểu nổi?


    Thầy đạo lại cởi chiếc mũ bạc xuống, dùng lòng bàn tay quệt mồ hôi trán. Tom trái lại, dùng chiếc mũ lưỡi trai để lau mồ hôi trán. Anh tiến tới vòi nước, thấm ướt chiếc mũ, vắt khô và tiếp tục đội lên đầu. Má kéo cái ly thiếc bên cạnh chiếc xe, rót cho Ông và Bà, hai người  đang ngồi trên đống đồ.  đứng bên thành xe vói đưa tách nước cho Ông Nội, ông chỉ liếm láp một ít lên môi xong lắc đầu từ chối uống thêm. Đôi mắt già nua đầy đau khổ ngước nhìn Má trong thoáng chốc, ý thức kia lại tan biến đi nhanh.

    Al mở máy cho xe đi thụt lùi lại máy bơm xăng.

                -Hãy đổ cho xe tôi, thùng xăng khoảng 7 gallons, nhưng bán cho 6 gallons thôi vì e nó tràn ra ngoài.
 Al nói vẻ cẩn thận.
Gã mập đút vòi xăng vào:
            -Không hề gì đâu, thưa ông.
Gã nói chuyện tiếp:
            -Ta chưa hề biết các người tới xứ đó sẽ ra sao? Họ có giúp cho tất cả không?
    
    Thầy Casy giờ mới phân tích đầy biện thuyết:
                    -Quanh vùng này ai cũng hỏi câu đó. Chúng ta tới đó ra sao? Theo ta nghĩ, chúng ta chưa bao giờ biết sẽ ra sao cả  do chúng ta ai cũng giữa đường đang mãi đi và tiếp tục đi. Tại sao bà con không nghĩ thế? Tất cả họ đều di chuyển, đều đang đi. Mọi người đều đang đi, đang tiến tới. Sự tiến tới bắt bà con phải đi. Đó là tại sao bà con luôn luôn di chuyển. Di chuyển làm bà con mong muốn điều tốt đẹp hơn cái đang có. Đó là cách duy nhất để họ có được điều họ muốn. Muốn điều gì, cần điều gì, họ phải bước ra và thực hiện điều mong muốn. Họ dám đương đầu với đau khổ và có khi phải điên lên trong tranh đấu. Ta từng đi khắp nơi, đều nghe bà con nói như bạn.

    Gã mập lo bơm xăng, cái kim chỉ số đang đọc trên mặt đồng hồ ghi số:

                -Ông nói đúng, nhưng rồi tương lai họ ra là gì? Đó là những gì ta luôn muốn biết?

    Tom khó chịu ngắt lời:
                        -Ô, nói như ông thì chẳng bao giờ biết được vấn đề. Thầy Casy đã cố gắng giải thích nhưng ông cứ hỏi mãi một điều như thế. Tôi hay gặp những người hỏi như ông. Thật ra các ông chẳng hỏi, nhưng lại cùng "ca cẩm" một bài y nhau.

                    -Chúng tôi sẽ ra sao ư? do các ông không muốn biết. Toàn đất nước này nay đều biến đổi.  Thiên hạ chạy tứ tán, người chết đói khắp nơi. Có thể nơi này sắp chết đến nơi nhưng chưa ai hay biết. Quá nhiều người giống ông. Các ông chưa thực sự muốn biết chuyện gì, tự mình ca hát, ngủ vùi trong bài hát cho mình thôi.


                - “Chúng tôi sẽ ra sao”  hả?

  Vừa nhái lại, Tom vừa nhìn cái trụ xăng, cũ, rỉ sét.  Sau trụ xăng là cái trạm xăng, dựng từ những miếng gỗ cũ, còn dấu lỗ đinh trước đây. Dám bạo gan để lại vết sơn vàng của các đại công ty xăng lớn dưới phố. Dù có sơn lại nhưng cũng không đủ che đi sự bắt chước này, các lỗ đinh,  đường nứt lấy từ ván cũ của đại công ty đó. Lớp sơn che này giờ cũng không còn khả năng sơn mới lần nữa. Sự bắt chước này là một thất bại; gã chủ tự biết mình thất bại. Trong cánh cửa khép hờ, Tom thấy vài thùng phuy đựng xăng, chỉ hai thùng. Quày bán kẹo cũ rích, kẹo và que cam thảo lâu ngày đã chuyển màu nâu, năm ba gói thuốc lá. Cái ghế hư. Cái màn gió , một lỗ thủng ở giữa, dơ dáy. Ngoài kia, cái sân ngổn ngang đáng ra phải trải sỏi. Ngoài cái sân, cánh đồng bắp  chết héo dưới  cơn nắng hạn. Một cái nhà nhỏ chứa đồ cạnh trạm xăng , gồm những chiếc lốp xe cũ, vá víu. Đây là lần đầu anh thấy một người như gã mập này bận thứ quần treo với cái áo polo rẽ tiền, cái mũ giấy như vậy.

    Tom tiếp tục:

                -Tôi  chẳng hề khoác lác ông à. Với cuộc đại hạn này, ông sẽ chẳng còn gì. Không bao lâu đâu, ông cũng bỏ chạy ra đường như vậy . Không phải vì mấy chiếc máy cày như hoàn cảnh chúng tôi, mà do mấy cái đại công ty xăng màu vàng trong thành phố của các ông đó. Người ta dần hồi phải bỏ đi như thế.

Giọng anh chợt ngập ngừng:
            -Và ông cũng tính chuyện ra đi không?

    Tay gã mập chậm lại trên cần bơm, hắn chợt ngưng trong thời gian Tom nói. Gã nhìn Tom vẻ lo lắng:

                    -Sao ông bạn biết được chuyện này? Câu hỏi của gã có phần tuyệt vọng.
                    -Làm sao ông bạn biết được chúng tôi đây cũng sửa soạn thu dọn mọi thứ để chạy về huớng tây vậy?
    Thầy Casy giành câu trả lời:
                -Mọi người đều thế cả…
                -Ngay ta thường chiến đấu hết sức mình diệt loài quỷ dử do ta nghĩ quỷ dử là quân thù. Nhưng giờ đây mọi người gặp điều còn tệ hơn trường hợp của ta do quỷ dử nay nắm hết trọn bộ đất nước này. Chuyện không phải ra đi để chặt vụn con quỷ này. Có bao giờ ông thấy con quái vật Gila con thằn lằn khổng lồ có nọc đọc này bắt nó phải chặt hai nó ra. Chặt đầu nó ngay cổ, treo đầu nó lên, dùng cái tuốc vít căng đầu nó ra, cho nó nhỏ nọc độc xuống cái lỗ mà miệng nó đào bên dưới.

    Ông thầy ngưng nói, nhìn chéo qua Tom.

    Gã mập trố mắt, thất vọng huớng về phía trước. Bàn tay gã chầm chậm xoay cái kềm mỏ -léc.
                    -Ta thực sự không biết sẽ ra sao đây nữa?
Giọng gã yếu xìu...

CÒN TIẾP

No comments:

Post a Comment

John E. Steinbeck- Trên Đường Thiên Lý (1)

     Chiếc Hudson đời cũ, người, đồ đạc, chất cao ngất . Tiếng cót két, rên rỉ, xe gắng bò đến Sallisaw xong quay sang hướng tây.  Mặt trờ...