Friday, September 5, 2025

QUE DIÊM CUỐI CÙNG (bài edit)

Chập chờn làn khói tím bên mái tranh xưa
khơi bao niềm thương nhớ.
Rừng chiều quạnh hiu bên vách đá cheo leo
như bao niềm ước mơ...

(Đường Chiều Sơn Cước / Minh kỳ Lê Dinh)












hình minh họa: những đồi sim vùng rú càn Ái Tử


     Thôn Xuân Khê, tên nghe khá thơ mộng nhưng có thể ít người Quảng Trị biết đến nó. Hơn nữa, theo trí nhớ của người viết, địa danh này chưa hề được ghi chú trên bản đồ ngoại trừ Thôn Ái Tử đã có từ lâu trên bản đồ Bộ TTM/ VNCH. (dưới)

    

tác giả lấy bản đồ Bộ TTM/QLVNCH cũ và đánh dấu 5 trại tù -đánh số màu đỏ- tác giả mô phỏng theo trí nhớ khi lấy con suối lớn còn gọi là Rào Vịnh chảy từ núi Ba Lòng phía tây uốn khúc chảy qua các thôn Hiệp khế, Xuân Khê, Nại cửu Phường về hướng Thôn Ái Tử.

 Người viết thấy cần nhắc lại -5 trại tù  do Bộ Đội CS coi kể từ khi các trại tù từ ngoài Cồn Thiên Gio Linh vào nhập lại với Ái Tử thì gọi tên mới là Đoàn 76 (trước khi sáp nhập còn gọi là Đoàn 74 số tù binh từ Ba Lòng về vào ngày 21/5/1975 trong đó có Tác Giả) , Theo con sông Rào Vịnh đó, có 4 trại nằm theo con sông Rào Vịnh này chỉ có trại 2 là nằm xa sông này. Con sông Rào Vịnh sẽ chảy về vùng Ái Tử, trong bản đồ nằm giữa hai con sông Vĩnh Phước và sông Ái Tử 


trại 1- từ Đại úy đến Trung tá

trại 5- chiêu hồi vc bị đi tù cải tạo

trại 4- từ thượng sĩ đến trung úy và trung đội trưởng nghĩa quân

trại 3- từ thiếu úy đến trung úy kể cả trung đội trưởng nghĩa quân

trại 2- chuẩn úy và thiếu úy kể cả Trung đội trưởng nghĩa quân

=========== 


    Từ Thôn Ái Tử, lên hướng núi khoảng vài cây số,  thì đến Thôn Xuân Khê. Vùng này, có một con suối lớn uốn khúc chảy về đến vùng Ái Tử. Suối không lớn nhưng đủ cung cấp nguồn sống cho bốn trại tù cùng mấy thôn nghèo heo hút sống cạnh giòng nước.  Người dân mới về lại sau 1975, nên thôn Xuân Khê ngày đó chỉ có vài mái tranh nghèo, đìu hiu ngó qua trại tù chúng tôi tức là Trại 4 Ái Tử. 

    Năm mươi năm rồi, người viết vẫn nhớ về Xuân Khê nằm khuất sau những mảng đồi sim tím. Tháng tám về, những đồi sim có trái chín đầy. Bóng tù thấp thoáng trong mấy lùm sim vào những ngày đi rừng đốn gỗ.


     Người viết nhớ làm sao, hình ảnh chiếc cầu ghép bằng nhiều tấm 'ri' sắt của Mỹ do tù đi kiếm cùng ghép dựng bắc qua con suối lớn. Hình ảnh ngày xưa quả là một thế giới một trại tù cách biệt với dân. Một chiếc cầu sắt tạm bợ, níu giữ bằng nhiều sợi kẻm gai, được bắc qua con suối trước lúc dân làng lác đác hồi cư. Người kể chuyện xin lan man xa đề một ít về thôn làng ở đây: Thời xa xưa, theo lời kể của người cậu họ làng ngoại Nại Cửu, tôi được biết có nhiều "ông khai canh" từ Phủ Triệu Phong bên kia sông Thạch Hãn từng lên đây kiếm đất xây làng mới. Đó là những thôn làng heo hút rất thưa dân gần núi hơn là gần biển. Có thể lâu đời, nhưng ít thế hệ theo ông khai canh lên đây tìm đất do quá thiếu thốn và hoang vu. Trại tù số 4 sát cạnh một thôn gọi là thôn Xuân Khê, ngó qua bên kia là Nại Cửu Phường, tức là một nhánh của làng ngoại tác giả. Có lần người viết đi củi cho Trại qua Nại Cựu Phường còn gặp được người dì bà con trong họ ngoại ngày đó bà dì này từng qua Thành phố QT làm cho tiệm hàng của Dì ruột...Con đường đi rừng của người tù trại 4 chúng tôi đi lên sẽ gặp Trại 5 và xa nhất là trại Một, cũng theo lời cậu tôi đó thôn Hiệp Khế. Những cái tên này, thiết nghĩ chỉ có người viết biết còn anh em trong trại ít ai biết được.




 Tiếng cót -két của chiếc cầu ri, mỗi khi những người tù qua sớm và từng làm tôi hồi hộp.  Chẳng khác mọi bữa, chúng tôi đi rừng thật sớm. Đó là lúc  nhiều đóm sao khuya còn lấp lánh khi mọi vật trong đêm đen vẫn còn say giấc ngủ. Người nào cũng có chén cơm 'tiêu chuẩn' lưng lửng, bới theo trong cái lon gô. Lon gô của người kể, giờ lại nằm lọt trong cái bao cát, tôi mang xéo một bên nách. 

    "Vũ khí" chúng tôi giờ đó là rựa, rìu cũng từ trại rèn ra xong phát cho từng người. Chúng tôi đã quen thuộc với chuyện đi rừng. Ai cũng rành chẳng khác chi "sáu câu vọng cổ" của nghệ sĩ cải lương ngày cũ. Chúng tôi lại thương cho mấy cái bao tử, lúc nào cũng đòi hỏi có thứ gì 'dằn' vào cái khoảng trống không.  Phần cơm đi rừng đã ít, lại chỉ được ăn để có sức mang gỗ về trại. Thế thì phải "linh động"  cho vấn đề sinh tồn. "Ngộ biến tùng quyền"- có nghĩa là trong 'cái đói sẽ ló ra cái khôn'.  Chúng tôi luồn vào rừng sắn của trại trong đêm, tìm bụi nào cao, nhiều củ...có nghĩa chỉ cần nhổ trộm hai, ba bụi sắn thôi là đủ. Những đồi sắn bạt ngàn, cả mấy trăm bàn tay người tù, khai hoang vỡ đất. Hai năm nay, bao công phá núi san rừng, đốt dọn, lượm đá, đắp vồng...Chỉ vài bụi thôi, chẳng thấm tháp gì trong hàng muôn triệu cây sắn, anh em chúng tôi có "cái no" để về lại trại.

  Tôi nhổ trộm hai ba gốc sắn; chỉ ba gốc sắn nhưng đã đầy cái bao cát. Thời gian đó đi rừng còn "giao khoán", có nghĩa chúng tôi đi cùng tổ không có bộ đội CS dẫn đi, miễn sao tối có gỗ về trại là được. "Trời đất" vừa sụp đổ chẳng ai còn mộng chạy đâu. 


*

   Con đường lên Rừng "Anh Tuấn" khá xa, khoảng hơn mười cây số. Thời gian đó, người dân làng nào khai hoang vùng rừng nào thì chúng tôi tạm đặt cho cái tên làng đó cho dễ nhớ. Làng (thôn) Anh Tuấn ở quận Triệu phong lên khai hoang trên này. Chúng tôi đặt khu rừng mới này là "rừng Anh Tuấn".  Đứng từ rừng "Anh Tuấn", chúng tôi có thể thấy được con đường đèo Ba Lòng tức là gần giáp với Hướng Hóa, phía bắc. Nhìn về huớng tây, rừng Trấm nay đã tan hoang sau hai năm vừa dân vừa tù khai phá. Gỗ cây về làm trại chúng tôi phải đi càng lúc càng xa hơn. Sau này ngay cả đi củi cho trại cũng xa. Trấm đang xây dựng đập-Đập Trấm- những mảng đất khai hoang  đứng xa vẫn thấy hình dạng loang lổ.

     Vừa đi tôi vừa miên man nghĩ đến hình ảnh buổi chiều vác gỗ về trại. Đó là những thời gian cuối cùng của một ngày lao động, khi ánh chiều tà còn lại những vạt nắng cô đơn trên những mảng đồi đầy sim chín. Chúng tôi sẽ  thoải mái tận hưởng những trái sim chín mọng, ngọt ngào.


  Rừng dần dà gần lại trước mắt. Rừng càng xa, càng hi vọng còn nhiều cây thẳng.   Chúng tôi ngang qua các rẫy sắn của người dân đi thì trời sáng hẳn. Người dân từ những làng xa xôi dưới miệt đồng bằng phải lên đây. Họ từng chấp nhận ăn sắn thay gạo. Nhưng thật phũ phàng, các rẫy sắn hay bị heo rừng phá nát. Phần còn lại chia nhau mỗi người chỉ được vài thúng sắn tươi. Nhiều bận đi đi- về về, xa xôi, tốn kém cùng  "cơm đùm gạo bới", rốt cuộc bà con chẳng có chi,  nghèo lại hoàn nghèo - đói vẫn hoàn đói.


    Toán đi chặt gỗ giờ băng qua vài hẻm núi mới vào được khu rừng rậm rạp, ít dấu chân người. Có như vậy mới hi vọng còn nhiều cây thẳng. Chia nhiệm vụ xong, chỉ còn tôi ở lại dưới khe lo chuyện nấu. 

   Hình ảnh cái hộp quẹt nội hóa- chúng tôi hay gọi là "bít- kê" (briquet) làm tại Chợ Lớn nhưng trong tù đã thành thứ hiếm. Nếu ai còn có cái zippo (tức là hộp quẹt Mỹ) thì  đã bị cán bộ CS thu giữ lâu rồi. Người viết lại lan man chuyện này cũng từ câu chuyện của "LỬA". Cũng đúng, do lửa là nguồn sống cho chúng ta, cho tù. Trong tù lửa là phương tiện đầu tiên cho ai muốn "cải thiện linh tinh"- để giúp no bụng.

    Nhưng nếu ai đó còn cái hộp quẹt dù nội hóa, thô sơ cũng phải cần có dầu hỏa hay xăng và một thứ rất quan trọng đó là ĐÁ LỬA. Ôi chuyện kiếm cho ra đá lửa trong tù quả thật quá hiếm và quá quý.


hộp diêm thống nhất




    Thời gian một mình dưới con khe đó, tôi phải có LỬA. Đó là điều tôi cần có, khi nhận nhiệm vụ nấu sắn. Tôi đã thủ sẵn trong người hộp diêm THỐNG NHẤT- vuông vuông- trong đó còn đúng 3 que diêm. Mớ củi khô tôi lo chẻ nhỏ,  một ít lá bổi làm mồi lửa.


    Những khúc sắn trắng "nõn nà" trông hấp dẫn chẳng khác chi "làn da người đẹp", giờ nằm gọn trong cái nồi gang do tổ chúng tôi mang theo. Hồi đó, trại  chúng tôi có đúc song nồi gang. Nguyên liệu để đúc có từ mấy chiếc thiết vận xa M113 bị cháy trong rừng. Tù được lệnh lên rừng cưa về. Trại sẽ nấu ra thành song, nồi, thau, vá  (cán bộ CS người bắc gọi là môi). Đúc xong, trại phát về cho từng lán, khối, tổ. Ngang đây, người viết xin nhắc về  một người có liên quan đến những cái nồi gang đúc này. Anh đó có tên là Viễn Khởi người Huế. Anh là người tổ trưởng đúc nồi cho Trại Bốn chúng tôi. Sau này anh Viễn Khởi còn sống hay chết chúng tôi chẳng biết. Một thời gian ngắn  sau khi đúc song nồi, anh biệt tích luôn. Chẳng ai còn biết gì thêm về nhân vật này.

Người tù "cải thiện" thức ăn cần nhất là lửa nấu những nơi kín đáo, muốn có lửa thì cần hộp quẹt hay diêm que Thống Nhất.


    
Tôi phải quẹt đến cái diêm cuối cùng tôi mới nhen được ngọn lửa. Trống ngực đập loạn xạ, tôi chẳng màng đến những con muỗi rừng đang vo ve hút máu tới tấp.  Mắt tôi căng ra, miệng đang dồn hết sức thổi phù phù...  Ngọn lửa bắt đầu leo lét cháy. Những làn khói yếu ớt từ từ tỏa lên bên hóc đá dưới con khe róc rách, ánh sáng mập mờ vì những tán cây rậm cùng sườn núi trên cao. Những đóm lửa đã bắt đầu bén lửa. Tôi chưa kịp mừng...
Chợt một ngọn gió xoáy nhỏ, thật ác, không biết từ đâu vụt qua. Ngọn lửa vừa bén, yếu ớt bốc lên chợt lịm tắt. Tôi hoảng hốt, run bắn người.

        -Ôi cũng do mình kiếm quá ít củi khô...
         -Trời ơi! mình phải làm răng đây?

 Que diêm trong cái hộp diêm đó là que cuối cùng tôi vừa quẹt xong. Nếu tôi nhảy qua bên bụi kia lấy ít mồi khô thì chút lửa than còn lại đó sẽ tắt hết. Làm răng, làm răng... tôi thực sự hoảng hốt. Ấn tượng cuống quít đó thật khó quên. Mấy anh đó,  trong rừng ra sẽ đói dường nào. Tưởng tượng bao thất vọng của cả toán. Vác cây ra, ai cũng đinh ninh sẽ có một nồi sắn chín, ăn no đến "phình bụng"...

    Bạn đọc còn nhớ các phần cơm bới theo giờ ở đâu? Cả toán đã ăn hết trước khi xách rựa vào rừng. Ai cũng đinh ninh sẽ có sắn nấu do tôi lãnh nhiệm vụ nấu ở khe này:
             -Làm răng! làm răng hè?!

    Người tôi thật sự run lẩy bẩy do quá lo cùng hối hận.
  Cuộc đời có nhiều lúc chúng ta run rẩy do yếu bóng vía sợ ma quỷ hay do sợ chết, mất của cải quý báu nào đó. Những lúc no đủ, dư dật khó ai đồng cảm với nỗi xúc động của một người tù "mất lửa" đang đối diện với lương tâm do việc làm không tròn. Tôi sẽ hối hận tột cùng khi chứng kiến nỗi buồn lòng, thất vọng do sự hành hạ của những miếng ăn bị mất. Những cái bụng trống không, thèm khát nhiều ngày như thế nào. Một lo sợ, run rẩy sau bao năm tôi vẫn còn nhớ. Thứ cảm giác chua cay, đau xót do miếng sắn thơm ngát dẻo ngon sẽ chín nhờ LỬA; nhưng vụt mất đi do một ngọn gió vô tình.
 
 Một mình tôi thiếu trách nhiệm không giữ  được ngọn lửa, cho lòng tin của mọi người, giờ làm sao?


  Một tia sáng lóe ra trong trí tôi, chỉ một thoáng giây!

   Miếng vải mỏng màu đà tôi vừa vá đắp vào hai bờ vai giúp đỡ đau vai khi vác gỗ, chính nó là cứu tinh ngay tích tắc đó. 

                -XO...ẠC!!!

     Không cần suy tính, bao nhiêu sức lực của một ý nghĩ thoáng nhanh... Miếng vải là 'cứu tinh' thật rồi- nó có pha sợi ni lon nên bắt lửa rất nhanh.

        Một mình dưới hẻm núi, tôi reo lên như một người điên:


           -Cháy ! cháy! cháy lên nữa 'đi em' lửa đã lên rồi!


Tôi muốn hét lên thật to cho hai bên vách núi cùng  chia sẻ với tôi niềm vui được LỬA. Một khoảnh khắc, nhớ, cảm thông. Hồn tôi trôi nhanh về một thuở hồng hoang nào đó - tổ tiên ta tìm ra ngọn lửa. Lửa bao ngàn năm tạo nên bao mạch sống ấm no. Nhưng giây phút đó, chỉ một mình tôi dưới con khe mập mờ ánh sáng của chốn rừng thiêng.



   Giờ nồi sắn đang sôi sùng sục như "reo vui" cùng chủ. Cái nắp nhôm đậy trên mấy lớp lá rừng đang rung lên từng chập...

        - Sắn, sắn, sắn chín rồi, các anh ơi!!!

     Một niềm vui không hẹn mà gặp trong những ngày tháng buồn rầu, đói khát, vô vọng và chẳng có gì là vui... 

    Tôi cẩn thận đổ nồi sắn chín đầu ra, trên lớp lá chuối rừng. Những củ sắn vừa chín, nứt nẻ, thơm phức. Tôi vừa làm, vừa ăn thử một miếng sắn chín, vừa gật gù như tự thưởng công. Đậy mớ sắn đó lại, tôi còn nấu thêm một nồi nữa. Nồi thứ hai này nếu ăn không hết, cả toán sẽ chia nhau, giấu đem về trại. Bỏ thêm vài que củi, tôi lấy thêm một củ sắn ra ăn như tự 'liên hoan" hay ăn mừng cho tôi khi vừa thoát một tai nạn "hết diêm -không lửa". Vừa nhai tôi vừa cất tiếng hú gọi mọi người. Xa xa có tiếng hú đáp lại- họ đang ra.
       Ngọn gió lạnh lùng quái ác kia nó đang trở lại. "Hắn" đang xuyên qua lòng khe.  

        -"Thằng khốn nạn" đang trở lui!

     Nó như muốn trêu tôi hay muốn hại tôi lần nữa. Khi 'hắn' vụt qua cái khoảng trống trên bờ vai áo mà tôi vừa xé, làm tôi thấy lành lạnh.

 Không sao do tôi đã chiến thắng, sắn đã chín, đã sẵn sàng cho các anh đó ra ăn.

Bỗng dưng tôi hưng phấn hẳn lên, vội cất tiếng hú thật to gọi các anh trong toán thêm lần nữa.


*

                                     

                          hình minh họa-đường về trại tù Ái Tử


    Chúng tôi ra khỏi rừng thường trời đã xế bóng. Trời nắng đó là những ngày vui. Sẵn sàng vác gỗ lên vai, chúng tôi hướng về đồng bằng, chân bước nhanh như nhớ thương dưới đó.

    Đoàn người vác gỗ nhấp nhô. Bóng họ ẩn hiện qua mấy trảng đồi. Tháng Tám về, không gian buồn tênh chen trong màu tím hoa sim như cam phận hay cảm thông cho những người thua trận. Ánh tà dương từ từ khuất dần phía tây.  

    Trong rừng sâu núi thẳm, nơi gió núi mưa rừng có những bóng tù len lỏi đi tìm gỗ thẳng. Một ngày xưa có bóng chiều bảng lảng xuống nhanh bên mấy trảng đồi có rừng sim chín mọng. Vị ngọt của trái rừng như an ủi cho bao nỗi buồn da diết đang len theo bước chân người tù vác gỗ đi nhanh./.

ĐHL ký ức tù binh 

tu bút  by ĐHL 


5/9/2025

No comments:

Post a Comment

SUY GẪM VÀI NGỤ NGÔN 1

  HAI KẺ BỘ HÀNH DƯỚI GỐC CÂY TIÊU HUYỀN Có hai kẻ Bộ Hành đang đi giữa trưa nắng gắt nên phải tìm một bóng mát nào đó trú thân. Nằm dưới bó...