Người Quảng Trị ngay ở thành phố vẫn gọi tiếng "triêng" thay cho "gánh" mới lạ? Triêng hay gánh đậu hũ từ Huế ra tới Quảng trị của các o, các mệ gánh rao hàng ngày không khác gì nhau. Một đầu là hũ đậu, nó được bao quanh một lớp vải rơm để giữ nóng. Phía đầu gánh khác là cái thùng gỗ đựng những thứ cần thiết như chén muỗng, đường, chanh hay vài thứ lặt vặt khác... Thau nước rửa chén nằm dưới, vài miếng lá chuối giữ nước khỏi chao chạnh. Người kể chuyện không biết miêu tả thế nào cho tận tường về gánh hàng đậu hũ năm xưa, nhưng có điều khó quên là tiếng rao của o bán đậu mỗi lần qua ngõ:
- Ai ... đậu hũ!?
Cũng chiếc áo dài bạc màu cùng chiếc nón lá đã đổi màu xam xám cùng dáng gánh nhẹ nhàng của o, hàng ngày chẳng hề thay đổi.
- Ai ... đậu hũ!?
Cũng chiếc áo dài bạc màu cùng chiếc nón lá đã đổi màu xam xám cùng dáng gánh nhẹ nhàng của o, hàng ngày chẳng hề thay đổi.
Xóm của bạn học Tống thị Huê, người bạn học đồng lứa, ở đầu con kiệt đi vào xóm của mấy chị Thu Ba, chị Tha có hàng đậu hũ này. Mẹ chị Tha và chị Ba, nhà sát cạnh ông Cai Hy đều là quen biết với nhà ngoại tôi cả. Tôi hơi dông dài ở đây, do mệ Cai Hy ngày xưa còn gọi là Mệ Thuận là thân mẫu của Chú Cai Hy làm phu ở ty Công Chánh, chú Thuận (đại úy Thuận là bạn với đại úy Nguyễn Bích em đại tá Nguyễn Bé coi Xây Dựng Nông Thôn).
Xóm Cửa Hậu chúng tôi lạ lắm; không kêu thì thôi, nếu có người kêu triêng đậu lại, thế là con nít người lớn đều tụ lại mua thêm. Có thể ăn đông người vui hơn, đỡ "ô ngai" hay "ốt dột" hơn chăng? Thật thế, nếu có vài người quanh triêng hàng, ai cũng cầm chén đậu trên tay, tự nhiên ai cũng vui vẻ hẳn lên. Cơn nắng xế trưa còn nừng nực, chén đậu lại nóng nhưng ăn đậu xong lại quên bẵng đi không khí oi nồng mùa hạ. Có thể lắm, ăn đậu nóng ra mồ hôi, khách ăn cảm thấy mát hơn.
Mấy đứa con trai lứa em tôi, ngõ nhà chú Huỳnh Chốn, bác Hà công Kinh, chú Phan Hưu đều gần cửa ngọ với nhau. Triêng đậu hũ đặt xuống là cả bầy con nít, trong đó có cả tôi 'bu' lại. Lúc này, bạc một đồng, sau này cao giá nhiều lắm là hai đồng có thể ăn chén đậu hũ.
O múc đậu vào chén thật khéo làm sao? Với cái vá dẹt tròn, o vớt thật nhanh nhưng lại nhẹ nhàng bỏ từng lát đậu trắng mỏng manh, nóng hổi vào chén. Xong, o thêm muỗng đường cát trắng tinh, một múi chanh nhỏ xíu. Tay o bán đậu sao nhanh và uyển chuyển quá đi! Việc làm của o bán đậu hũ không dư, không thiếu. Ngó vậy mà o không làm khách đợi lâu.
Một đời "buôn gánh bán bưng", thân quen trong mọi ngã đường quanh xóm. Nhà nào kêu thì o gánh vào. Khách trong nhà ngồi ngay trước hiên thưởng thức mấy chén đậu trưa hè. Tình làng, nghĩa xóm càng đậm đà, khách ăn không ai xa lạ, người cùng thôn kẻ mua người bán giúp nhau.
Tôi được dịp ghi lại hình ảnh "gia tài" triêng đậu nói đúng hơn là chút vốn liếng cỏn con của o tới bạn đọc tường tận. Đương nhiên ai mà chẳng có lúc ăn đậu gánh ngày xưa? Nhưng để ý "cái gia tài" của o bán đậu gồm những gì thì có mấy ai?
gánh đậu xưa xứ Huế, xem áo dài có thể là thập niên 1940. O bán triêng đậu đang đi ngang Đập Đá xa xa là Cầu Trường Tiền. Qua hình xưa này bạn đọc sẽ nhận xét người đàn bà lam lũ xưa buôn bán và lao động thì đi chân đất khác với hai người đàn bà áo dài trắng đang đi chiều ngược lại có thể là giới đài các nên chân đi guốc
... Mấy cái chén nhỏ được úp trên cùng, nhưng chúng là chén sành. Mấy cái muỗng sứ hình dạng khum khum xếp một lớp với nhau. Múi chanh xanh vỏ, thơm thơm mát dịu. Trộn tan xong muỗng đường , chén đậu hũ chưa nguội. Vị đậu hũ nóng tan đều vào lưỡi, thoảng mùi thơm chanh tươi làm người ăn khoan khoái trong lòng! Khách thường kêu thêm chén thứ hai nên hàng mau hết. Gánh hàng ít khi phải đi bán thật xa, từ đầu đến cuối phường là hết.
Thôn Đệ Tứ ngoài những triêng đậu, còn có những gánh chè môn sáp. Tôi tin rằng thứ chè này do người Trung bày ra đầu tiên. Người Trung hay trồng môn khoai phòng khi thiếu đói, giáp hạt. Ngay từ cung đình Huế vua còn ưa ăn canh mít non, mắm nêm thì chè môn chắc không thể nào thiếu ở chốn Hoàng Cung. Hồi đó, chị đứa bạn tôi cùng thôn có gánh chè môn sáp ngon "trứ danh". Đó là lời đồn thôi, do người viết chưa hề có cơ hội ăn chè môn sáp của chị đứa bạn này cả? Tại sao thế? Người viết là "đứa ăn hàng" mà? lý do người chị đó ngay sáng tinh mơ đã quảy gánh lên chợ Tỉnh (chợ Quảng Trị ngày xưa).
Đứa bé như tôi chẳng hề là khách ăn của chị. Những chén chè sắp sẵn trong từng mâm, không thể như cháo hay đậu hũ để múc ra cho khách. Chè môn sáp bán từng chén múc sẵn. Gánh chè trên có từng lớp mâm tổng cộng mấy chục chén chè, bán xong là quảy gánh ra về...
Tả như thế để bạn đọc hình dung ra, khách ăn của gánh chè trên đâu phải là người trong thôn, mà là dân trên phố Chợ Quảng Trị đó thôi. Có lần nào đó, một buổi sáng sớm, đi ngang qua xóm thằng Mẹo, đứa bạn nói trên, người viết có dịp thấy chị gánh hàng chè môn đó, lúp xúp ra khỏi con kiệt...xin tả lại cũng chẳng thừa đó là những mâm chè môn màu lam nhạt, múc sẵn ra chén, chồng lên nhau từng lớp.
Người viết lại lan man mất thôi?
Giờ xin trở lại chuyện triêng đậu hũ. Nên chăng tôi phải nhắc lại với bạn đọc rằng: ngày đó tôi chẳng hề nghe chuyện "cạnh tranh" buôn bán như thời nay. Trời hè nóng bức, chiều chiều người trong thôn đã thấy triêng đậu. Dáng mệ, dáng o, lúp xúp gánh từ xa. Người ta đợi, triêng đậu tới gần.
Tiếng là ăn nóng, nhưng khi ăn xong lại thấy mát mẻ trong người. Người lớn kinh nghiệm điều này. Tôi tin thế, do khi mồ hôi ra bớt, trong người cảm thấy mát hơn. Con nít thời nào cũng ưa ăn cà-rem. Nhưng trời hè, càng ăn nước đá càng cảm thấy nóng, không mát chút nào? Người viết cũng xin mở ngoặc thêm một ít ở đây: triêng đậu thường xế trưa mới bắt đầu bán. Mấy gánh bún xáo, cháo hầm, cháo bánh canh...mấy o đi bán từ sáng sớm.
O bán đậu gánh nhịp nhàng. Cái đòn gánh "cong cong", mềm mại bao ngày trên vai. Gánh đậu còn xa tôi đã nhận ra o. O sắp đặt cho gánh đậu gọn gàng làm sao! Múi chanh cắt rất nhỏ, đến mức tôi không nghĩ rằng tôi cắt được. Tính toán chi ly o kiếm đồng lời. Tô đường cát trắng mịn, loại đắt tiền, o xúc thật khéo bỏ lên mặt chén đậu nhỏ- không quá ngọt, mà cũng không lạt để khách phải nài. Sau này, trong nam cũng có đậu hũ, xuơng xâm xuơng xáo... người ta muốn nhanh nên nước đường nấu sẵn, đen sì; tôi chẳng ưa.
Quảng Trị vào hạ, nắng Nam Lào gay gắt như đổ lửa. Một thời, máy nước đá chưa nhiều trong thành phố. Thật ra trong những phường ngoại ô, bà con ưa ăn đậu hũ hơn là những thau nước trà đá chanh đường.
đậu hũ trong nam khác ngoài trung
Vào nam, tôi vẫn thấy người trong này làm đậu hũ. Người ta làm đậu lại bỏ trong những song nhôm trắng xóa. Thế là nguội mất, không nóng bằng thứ đậu hũ gánh ngày xưa.
Nay tuy đậu hũ không lạ với bà con bên quê nhà. Thế mà thiếu? Thiếu là thiếu cái khung cảnh ngày đó. Khung cảnh mà người ở trên hay cuối phường đều là bà con cố cựu, cùng sống, cùng lớn lên từ thời Pháp, thời đệ Nhất Cộng Hòa. Từ đầu đến cuối phường đi bộ "chưa tàn điếu thuốc",gần nhau đến thế nhà nào cũng biết tên nhau, chẳng ai xa lạ.
Tuổi già lẩn thẩn, hay nhớ về hình ảnh nào xa lắc...xa lơ, trong đó có gánh đậu hũ lởn vởn hiện về trong trí nhớ tôi. Tôi nhớ sao hình ảnh o giở cái nắp gỗ tròn lên... một màu trắng tinh khôi của hũ đậu, như đám mây trời dày đặc đang thu gọn lại bên trong. Tay o nhịp nhàng với xuống xớt từng vá đậu mong mỏng, mềm mại, vào từng cái chén sành nho nhỏ , xinh xinh, in hình rồng bay, hạc lượn. Một chút tưởng tượng, tôi hình dung cả một bầu trời mây trắng đang quyện mình trong chén đậu vào một ngày hè ./.
4/2/2014 nhớ về Thôn Đệ Tứ Thành Phố Năm Xưa Quảng Trị
EDITION 10/2/2021 mùa COVID MỸ
4/2/2014 nhớ về Thôn Đệ Tứ Thành Phố Năm Xưa Quảng Trị
EDITION 10/2/2021 mùa COVID MỸ
last edition
7/9/2025 by ĐHL
No comments:
Post a Comment