NHỚ THÀNH CỔ XA XƯA CÙNG MỘT ĐOÀN HÁT BỘI BỊ KẸT LẠI DO NGHÈO
Hoàng hôn lá reo bên thềm
Hoàng hôn tơi bời lá thu
Sương mờ ngậm ngùi xuân xanh
Bâng khuâng phím loan vương tình
Đâu bóng trăng xưa
mơ khúc nghê thường...
(Tiếng Xưa / Dương Thiệu Tước)
Đã non sáu thập niên giã từ Quảng Trị cùng nghĩa với giã từ Thành Cổ xa xưa trong một mùa hè chiến tranh nghiệt ngã. Thành xưa ngày đó có 4 cửa Tiền Hậu Tả Hữu- tiếng là "bốn ngã đường thành" nhưng cuối cùng chỉ còn cửa thành Đinh Công Tráng là lối vào ra duy nhất. Nhớ thành xưa người kể vẫn nhớ mãi con đường Lê văn Duyệt hàng ngày cùng bạn cắp sách đến trường. Người viết nhớ Cửa Hậu do trước 1967, cửa thành này còn mở và hàng ngày tôi vẫn thấy từng đoàn người tù ra vô.
CỬA HẬU XƯA VÀ NAY (hình người đứng là cậu người viết ông Võ đình Cư người thôn Đệ Tứ, nguyên trưởng chi Công an quận Gio Linh VNCH )
Thôn Đệ Tứ dọc theo con đường Lê văn Duyệt có một đoàn HÁT BỘI tên là HOA MAI. Đoàn đó của ông bầu tên ĐƯƠNG. Đoàn ông ra "đóng quân lâu dài" trước mặt nhà ông Đội Chức nơi cái bãi đất làm sân bóng trong thôn. Vị trí sân bóng trong thôn đó đối diện với cái Miếu Âm Hồn gần xóm Heo một cái xóm phát xuất múi đường Trần Hưng Đạo thẳng góc với con đường Lê văn Duyệt. Từ nhà ông Đội Chức đi qua đường để xem tuồng là gần nhất. Người viết tuy còn nhỏ nhưng vẫn nhớ hình dáng thong dong, thư thả ra dáng phú ông bá hộ nào đó của ông Đội Chức thân sinh của chú Trần văn Đại. Mà chú Đại là bạn của nhà văn Hoàng long Hải. Theo nhà văn Hoàng long Hải, ông mô tả vị trí đó như sau...
Lại chuyện điên mà chết của anh chàng Trần Văn Đại.
Đại là con ông Đội Chức, em Trần Văn Tây, bạn học của tôi.
Đầu thập niên 1950, ông Đội Chức lấn đất của cái miếu ở ngã ba Trần Hưng Đạo - Lê Văn Duyệt, dựng một cái nhà ngói. Việc nầy là không nên. Cái khu vực miếu nầy là linh lắm. Người người nói vậy. Tin hay không tin thì cũng lắm người sợ. Lê Văn Tịnh kể, một buổi trưa anh ta nằm nghỉ mệt trên bãi cỏ, gần miếu, sau một trận đá banh “chết bỏ” với mấy đứa bạn cùng lớp ở cái bãi tha ma bên kia đường. Đang tơ lơ mơ, Tịnh thấy “xẹt” một cái ngang trời. Tịnh nói: “Chắc là Bà về miếu”. Một hôm, tôi thấy bông sứ trong khu miếu thơm lắm, tính trèo cổng vào hái trộm đem về ướp vào sách chơi, nhưng cũng sợ Bà nên không dám vào. Ở nước ta, bông sứ thuộc loài hoa “linh thiêng”, chỉ được trồng ở các đền chùa miếu mạo. Vào miếu bẻ bông của Bà chắc là “đắc tội”, Bà không mấy rộng rãi, khoan dung:
Bàng hoàng cõi mộng Hương Khê
Vườn ai sứ trắng rụng về Tây Thiên.
(Hoàng Xuân Sơn – “Huế buồn chi”)
Đâu có phải vườn ai? Vườn Chùa, vườn miếu đấy!
Chùa, miếu là đất linh thiêng, vì ông đội Chức chiếm đất của Bà nên Trần Văn Đại mắc bịnh điên. “Bà bắt đấy”. Người ta đồn vậy. Cuối cùng, chạy đủ hết năm thầy bảy bà nhưng Trần Văn Đại cũng phải vào cõi âm, “đi mây về gió” để theo hầu Bà mà chuộc tội “lấn đất” của cha...(Phường Đệ Tứ của tui/ Hoàng long Hải)
(người viết tuổi nhỏ nhưng còn nhớ người thôn Đệ Tứ còn "thêm mắm thêm muối" bữa trưa đi ngang qua Miếu Âm Hồn thấy (hay nghe) trên cây đào cổ thụ có rung rinh con tinh (vợ chú Đại) ru con nữa mới 'ớn lạnh' làm sao. Bởi thế tuổi nhỏ đi học Trường Nam khi ngang qua Miếu tôi cứ cúi đầu đi cho mau. Thấy hoa sứ bên trong sân miếu rơi đầy nhưng chẳng hề mò vào lượm do SỢ)
Trở về chuyện kể của tôi. Tại sao mà lâu dài? Đó là do đã lỡ "sa chân" ra tận một thôn nghèo nơi vùng hỏa tuyến. Thêm một lý do nữa, có thể lắm đó là do thời buổi người ta chỉ chuộng cải lương làm đoàn ông Đương kẹt lại lâu dài tại một thành phố miền "địa đầu" do thiếu ...TIỀN để trở vô lại quê nhà.
Hàng ngày có thể Ông Đương và đoàn Hoa Mai của ông chỉ mong có đủ tiền ăn rau cháo qua ngày nên trong tay một đoàn hát bội năm xưa đó lâm vào cảnh ngộ bi đát là rất túng thiếu. Sự túng bấn đến nổi cả đoàn không còn ai còn lực, còn tiền để về lại quê hương Bình Định của ông.
Những ngày đầu lúc đoàn vừa ra lưu diễn ở thôn tôi, có thể người dân trong thôn Đệ Tứ (đường Lê v Duyệt) còn lắm háo hức và còn tiền. Dần dà, bà con quen mặt ông kép bà đào, lại hết tiền nên khách vắng dần... Đứa trẻ như tôi thú thật thời gian đầu cũng mê hát bội của đoàn Hoa Mai lắm. Một thời chưa biết T.V. là gì, hơn nữa chẳng có cái thú nào hơn đoàn hát này. Rất lâu mới có một đoàn chiếu phim công cộng. Có đoàn cải lương nào đó trong nam ra thành phố Quảng Trị lại còn hiếm hoi làm sao? Dù có hay không, tôi làm gì mua nổi cái vé đắt tiền của các đoàn cải lương nổi tiếng tạiThủ Đô vừa ra như Thủ Đô, Hương Mùa Thu, Thanh Minh -Thanh Nga, Kim Chung...dạo đó? Ngày xưa, mấy đoàn cải lương họ khá giàu. Đi lưu diễn ra trung nhưng còn có một hay hai chiếc xe tải chở đồ đạc và đoàn diễn, do xe là tài sản của các đoàn cải lương nói trên. Khác với một đoàn hát bội nghèo thuê chiếc xe chở ra tận Quảng Trị xong là phải lo có tiền để thuê xe khác trở vào mới là vấn đề không hề biết trước ra sao?
hình có tính minh họa: Ông bà Đương đóng đủ vai trong đoàn hát bội Hoa Mai
Người kể xin trở lại đoàn hát bội Hoa Mai. Ông bà Đương đóng đủ vai- từ Sự tích Đức Phật Thích Ca, Quan Âm thị Kính, Phạm Công Cúc Hoa, cho đến Quan Công Trương Phi...ông bà Đương đều đóng "tuốt luốt". Đối với vai nữ, người kể còn nhớ do thiếu diễn viên, bà bầu tức vợ ông Đương đóng đủ vai từ thiếu nữ cho đến bà già...bà cũng đóng "tuốt luốt" hết!? Tác giả cố ý dùng hai chữ "tuốt luốt" đó là tiếng người thôn Đệ Tứ hay dùng; có nghĩa là không bỏ thứ chi? Ôi người viết nhớ làm sao, từ tiếng trống "cầm chầu" của mấy cụ già, cho đến hình ảnh vài ba đồng bạc giấy được khán giả ái mộ vo tròn lại xong, quăng lên sân khấu thường cho diễn viên. Người viết không quên nhắc đến cái bóng lom khom nhưng nhanh nhẹn của đứa bé con đào kép nào đó từ sau "cánh gà" vụt ra lượm tiền.
Đoàn hát trú ngụ tại Thôn Đệ Tứ chúng tôi lâu quá, tài tử đẻ thêm con. Túi tiền dân trong phường lâu ngày cũng cạn. Sự tò mò háo hức cũng tan dần khi nhìn thấy bà bầu tức vợ ông Đương cùng những bà vợ mấy ông kép khác ban ngày ra chợ không còn "hình dáng mỹ miều" như lúc đóng tuồng lại là những bà đào "về chiều" già nua, da thịt nhăn nheo trông đến thảm thiết! Đứa trẻ năm xưa mãi còn nhớ có những đêm mưa, vắng khách, tiếng ông Bầu Đương van nài, kêu gọi...
-Xin bà con cô bác hãy thương mà tới coi giúp cho đoàn chúng tôi. Bà con ơi! mùa đông mưa gió tội nghiệp!...
Đó là sự thật, một sự thật nghe sao buồn rầu, ảo não cùng thê lương quá của một đoàn hát vào lúc " thời buổi hát bội về chiều" rồi lại bị mắc kẹt tại một thôn xóm ngoại ô cũng nghèo... quả là một dấu ấn khó quên cho cuộc đời nghệ sĩ, những đào kép hát bội năm xưa từ xứ Quảng ra đến một tỉnh địa đầu giới tuyến. Họ phải ra đi trong thời chiến tranh, đường sá mìn bẫy, thiếu an ninh cũng vì miếng cơm manh áo, chết sống chi cũng theo nghề giữ nghiệp. Cho đến lúc lớn thêm ít nữa tôi mới thấm thía với bao nhiêu cảm nhận đáng thương cho những ai làm văn hóa mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc; đáng lẽ họ phải được nâng đỡ và bảo trợ do cái nghề của họ là bảo tồn giềng mối đạo đức, phong hóa cùng truyền thống dân tộc.
Thời thế càng lúc càng thay đổi. Mọi cuộc sống vật chất càng ngày càng thăng hoa, tân tiến. Cũng như số phận các ngành khác như cải lương, chèo cổ và cùng Hát Bội chắc hẳn sẽ bị khuất lấp dần hồi vào lịch sử nếu không có kế hoạch hay chính sách cứu vớt kịp thời của chính phủ ở trên. Câu hỏi khá đơn giản, có bao nhiêu người trẻ muốn học nghề cải lương, hát bội?Người viết e rằng cho đến một ngày những gì chúng ta muốn coi lại tuồng xưa tích cũ có thể chỉ còn trên băng dĩa đó thôi./.
No comments:
Post a Comment