Mỗi lúc đàn chim khuất về nẻo tối
Ánh nắng còn lưu luyến ngoài lưng đồi
Đường chiều xa vắng, mây nước mênh mang,
nghe lòng bâng khuâng nhớ nhung,.. (tác giả Lan Đài -Khói Lam Chiều)
Ánh nắng còn lưu luyến ngoài lưng đồi
Đường chiều xa vắng, mây nước mênh mang,
nghe lòng bâng khuâng nhớ nhung,.. (tác giả Lan Đài -Khói Lam Chiều)
TRÂU ĐANG ĐẠP LÚA NGÀY XƯA
ĐẠP LÚA XONG SẼ XÂY ĐỤN RƠM BÊN CẠNH có trụ tre ở giữa
Thương về một thuở hồn quê có MẸ tôi cùng có xóm Cửa Hậu, Thôn Đệ Tứ, Thị xã Quảng Trị
ĐHL
*
Chắc sẽ có bạn đọc mĩm cười, lạ gì cái đụn rơm mà viết. Thưa với bạn đọc chuyện là do cái xóm Cửa Hậu của chúng tôi ngày xưa tiếng ở thành phố lại giáp ranh với những đám ruộng hai thôn Hạnh Hoa cùng Trí Bưu nên mới có hình ảnh cái đụn rơm làm đề tài để kể lại ít nhiều cho bạn đọc nghe chơi...
Thuở đó khoảng trước năm 1963, tôi chưa lên mười tuổi, xóm tôi ở có vườn nhà Ông Lâm tức là ông thân của võ sĩ Bách Tùng Lâm. Nhà ông kế cận nhà ngoại tôi. (sau này khoảng sau 1961 (?) ông bán nương vườn này lại cho ông thân sinh của bạn Hà thị bích Huờng và dời nhà ra phía ruộng). Ông Lâm làm nông . Cái nhà rường của Ông nằm giữa mấy bụi tre và vườn chuối rậm rạp. Dù xóm tôi ở trước Cửa Hậu, nhưng qua vườn nhà Ông thì rõ ràng đây chẳng khác cái cảnh thôn quê chút nào. Nào cảnh gặt lúa xa xong gánh về nhà, phơi đập, cuối cùng là chuyện xây cái đụn rơm. Hình ảnh "về làng" là cái đụn rơm, làn khói lam chiều sau vườn nhà khi ông cho con bò về chuồng sau buổi cày chăm chỉ.
Người kể chuyện cho rằng, đụn rơm có thể biểu hiện cho sự sung túc no đủ của người làm nông. Lúa nhiều thì đụn rơm càng to. Xây đụn rơm là cả một quá trình công phu, cẩn thận đâu phải đem bỏ lồm xồm cho mau đầy đống. Gánh lúa về trước hết là đạp lúa mới còn lại rơm. Tiếng roi "tron trót" thúc chú bò vừa rủng rỉnh đi quanh cái trụ , những bó lúa đã bó gọn chắc nịch từ ngoài ruộng gánh về chất đống một bên. Con bò không ngơi bước. Con bò của nhà ông Lâm quan trọng đến thế. Cứ mỗi vòng đi là Ông lấy cái đòn "sảy" móc bó lúa thảy vào cho con bò tiếp tục dẫm lên . Đó là cái "nền , móng" cho đụn rơm ngày mai khi đạp lúa hết.
Trí nhớ tôi không thể nhớ hết khi làm sao đụn rơm có thể lên cao chót vót trên kia? Nhưng cuối cùng, sẽ là cây tre bắt chéo từ trên phủ xuống để giữ cho đụn rơm khỏi gió. Cái trụ nằm giữa, cho các lớp rơm của nhà ông Lâm xây quanh, cao dần lên đạp chắc nịch. Cuối cùng là mấy cây tre bắt chéo từ chóp đống rơm thả xuống hai bên cho rơm khỏi tung khi gió thổi.

Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào.
Khói bay đến tận Thiên tào
Thượng hoàng phán hỏi: Đứa nào đốt rơm?
[ca dao]
Tôi thương và nhớ mãi mùi đụn rơm. Ta có thể gọi chính nó mới khắc ghi được một thuở "hương đồng cỏ nội"- những lúc ham mê chơi đuổi bắt hay trốn tìm cùng mấy đứa bạn quanh đụn rơm xóm cũ. Tiếng bầy chim sẻ trên cành tre bìa vườn bác Lâm ngày xưa, giáp giới cánh đồng Cổ Thành chạy về bờ sông Vĩnh Định tận bờ tre mờ nhạt phía làng An Tiêm. Những lần chị Dao, con gái Bác Lâm, rủ tôi đi nhặt ốc bươu hay bắt đam ngoài ruộng. (Sau này người ta lấy đất cày đắp thêm, mở mang xóm Cửa Hậu. Thế là có thêm nhà ông Nguyễn Tri Duyến, ông thân của chị Đoàn, chị Liễu...xóm lấn dần ra ruộng...có mấy nhà vợ con lính từ làng lên ngụ cư và tiếp đến Đại Đội Võ Trang Chiêu Hồi thành lập...)
Mỗi khi ông thân chú Tùng vác cày từ ruộng về, dáng ông mạnh khỏe, chắc nịch. Bên trong con người điềm đạm, hiền lành kia có ai ngờ ông là một nhà võ? Thứ võ Ta này ông truyền lại cho hai con trai là chú Bách, chú Tùng. Chú Tùng sau này lấy biệt hiệu là Võ Sĩ Bách Tùng Lâm. Người phường Đệ Tứ QT trước đây còn nhớ đến chú Tùng nhiều. Tôi xin viết riêng một ít để giải thích tại sao chú Tùng lại lấy biệt hiệu này? Đó là cái tên ghép của ba người trong nhà: Bách là anh đầu. (Chú Bách là bạn của cậu Võ tự Phương tôi. Sau này cả hai đều là Thiếu Sinh Quân AET sau là TQLC). Chú Bách sau này lấy vợ người quê Bình Định. Câu "ai về Bình Định mà coi , con gái Binh Định múa roi đi quyền" vậy mà thật a! chú Bách là con trưởng của Ông Lâm, võ Ta chân truyền đâu phải là vừa? Thế mà khi gia đình ông Lâm dời nhà ra phía ruộng, cô dâu Bình Định có chuyện xích mích với chồng trỏ ngón gia truyền "thắng luôn" chú Bách.
Người kể chuyện cũng xin bắc cầu kể qua em trai kế chú Bách tức là chú Tùng. Chú Tùng sau này là 'sếp' của lính "Xi Ti" của Mỹ tại QT. Hồi này tuy còn nhỏ, người viết còn nhớ những buổi văn nghệ tại Ty Thanh Niên hay nhà Đại Hội (sau lưng tòa Hành Chánh QT). Làm sao quên được sự háo hức và tự hào khi nghe tiếng loa vang giới thiệu:
- Đây! Võ Sĩ Bách Tùng Lâm...
Chú Tùng ra biểu diễn những đường võ ta. Bắp thịt nổi cuồn cuộn-trông chú chẳng khác chi hai lực sĩ Nguyễn công Án hay Nguyễn thành Nhơn vào thập niên 1950 những lực sĩ thần tượng cho cậu Võ Hoa tôi, người hay chưng hình ảnh họ trong nhà.
Thật là "sướng con mắt" và cũng tự hào cho người dân trong xóm Hậu cũng như chung cho toàn Thôn Đệ Tứ năm xưa biết chừng nào!
Tôi lại miên man lạc đề mất...
Giờ xin trở lại về chuyện cái đụn rơm ra sao? Chuyện cái đụn rơm này còn một thứ để kể về một lần đoàn làm phim từ trung ương Sài Gòn ra đây đóng một cuốn phim trong cái thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Cái ngày đó những thanh niên trong phường đều được "trưng dụng ", không có tôi do tôi là con nít. Người viết còn nhớ - chú Nguyễn Bích (em đại tá Nguyễn Bé Chỉ Huy về Xây Dựng Nông Thôn VNCH) rồi đến các chú Trương Đá, chú Liệu, Chú Thuận (em ông Cai Hy), thời này còn học sinh "độc thân vui tính", tất cả đều sốt sắng đóng vai Thanh Niên Chiến Đấu. Trong màn đêm tất cả đều bận đồ đen, tay cầm đuốc chạy quanh đụn rơm. Cảnh quay phim rộn ràng huyên náo...tiếng kẻng tiếng mõ đánh nghe inh ỏi dồn dập, liên hồi...
Tất cả hình ảnh đều tập trung vào cái máy quay phim trắng - đen quay nghe "sè sè". Chiếc máy điện đặt chính giữa sân nhà chạy nghe "xình xình". Bà con lối xóm phường Đệ Tứ có một đêm vui vẻ lạ và nhớ mãi trong đời. Làm gì có một đoàn làm phim từ Trung Ương Sài Gòn ra tận xứ "khỉ ho cò gáy"như hôm đó? Đoàn làm phim trú lại xóm, đèn 'măng sông' thắp lên làm việc, trông thật rộn ràng mà cũng chẳng kém phần "hệ trọng". Người viết nay còn nhớ, nhưng các bậc đàn chú, đàn anh như các chú Trương Đá, Nguyễn Bích, Bách Tùng Lâm ...chắc gì còn nhớ ? mà lớp tiền bối này chắc hẳn còn lại bao nhiêu người. Ngồi kể lại hôm nay (2025) thế mà giờ đây các bác các chú, các anh tất cả đã về với người muôn năm cũ...
Trang mạng Đồng Môn Nguyễn Hoàng Quảng Trị vừa đưa tin Anh Nguyễn Bích là người ra đi cuối cùng tiếp nối sau cậu tác giả là Võ tự Bé một người anh trong thôn Đệ Tứ mà A Bích rất quý mến. Người cậu của người viết đã ra đi cách đây 2 năm. Thế là những bậc trưởng thượng những lớp đàn anh trong thôn Đệ Tứ ngày xưa, hầu như tất cả đều nối tiếp nắm tay nhau ra đi thật xa về "trời miên viễn". Dù đó là một định luật cuộc đời không ai tránh được, nhưng hôm nay sao tôi lại xao xuyến và thật buồn...
Hôm nay chỉ còn lại lác đác những đứa em đứa cháu, thuộc thế hệ hậu bối như người viết đây, dung rủi ra sao lại có cơ hội ngồi viết lại những dòng tâm tư tình cảm, hoài mong chút gì lưu bút hay hoài bão nào đó hầu vẽ lại một bức tranh ký ức xa xưa, một trời thân ái...con đường Lê văn Duyệt, Thôn Đệ Tứ xóm đường Duy Tân cùng thôn Đệ Tam cận kề thương mến ngày nào?!
***
Sau cuộc 'đổi đời' 1975, vào năm 1997 sau khi gia đình tôi đi Mỹ 2 năm, Mẹ tôi từ Bình Tuy (Bình Thuận cũ) được một dịp về thăm làng xưa Nại Cửu. Hình ảnh đụn rơm chia theo 'công điểm' bên mái hiên nhà cậu tôi, Võ thế Hòa làng Nại Cửu vào năm 1997 khi làng ngoại tôi đã vào Hợp Tác Xã
Hình ảnh Cái đụn rơm trong hình bên cạnh, ngày đó xem bình thường nhưng giờ đây trở thành lịch sử của kỷ niệm thân thương... Đó là đụn rơm tại nhà cậu họ tôi tên là Võ thế Hòa, làng Nại Cửu. Năm này là năm 1997, ruộng đồng Làng Nại Cửu đã vào "hợp tác". Bao ấn tượng sau cái năm 1975, cậu Võ thế Hòa làng ngoại tôi từng tỉ tê kể lại cho đứa cháu ngoại nghe rằng ngoài cái chuyện lúa thóc chia theo "công điểm" và ngay cả rơm sau mùa gặt hợp tác cũng chia. Khi đã vào hợp tác thì hình ảnh đụn rơm bên mái hiên nhà cậu tôi sao nhỏ bé đến thế kia. Theo con mắt đứa cháu như tôi một lần 'trốn trại' về làng nó là hình ảnh rõ nét nhất cho đói nghèo, thiếu gạo thiếu lúa, khó lòng quên được.
Như thế ngược về quá khứ xa hơn nữa, một quá khứ êm đềm mà người viết đang kể lại đây; chắc hẳn đụn rơm to lớn của nhà ông Lâm kế nhà ngoại tôi là những gì ấm no, một thời bé bỏng xa xưa.
Đụn rơm tuy cao thế, nhưng khi rút rơm thì lại rút từ dưới. Lâu ngày hỏng chân , thấy cả khoảng trống nhưng lại không bao giờ sụp đổ thế mới hay. Có đụn rơm, người nông phu thấy vững tâm, không lo thiếu củi . Mẹ già lui hui nấu bếp rơm sau vườn . Mẹ dùng cái que nè xăm xoi cho rơm bừng cháy. Cái nồi thật lớn thế mà vẫn sôi vẫn chín. Tro rơm để đó làm phân chẳng bỏ thứ gì. Con heo nái chuyển bụng , cái chuồng trống trải cần lót cũng cần có rơm. Cái thúng đựng máy cặp đường đen cất cho nồi chè mồng Năm Đoan Ngọ, không có rơm vình chắc là đường ướt. Con nhà nông coi đụn rơm như người bạn "chí cốt, chí tình" không thể rời xa.
Có được nồi cơm, ấm nước, bới cho bác nông phu đang cày ngoai` ruộng, người ở nhà phải chắt chiu , góp nhặt từng cành tre gãy, từng cọng rơm khô. Đụn rơm kia là nguồn lửa cho chén cơm thơm, miếng canh ngọt bùi, nuôi sống cho con nhà nông những lúc làm lụng nhọc nhằn. Đụn rơm bên hông nhà là hình ảnh không thể thiếu trong con mắt nhà nông.
Mỗi lần vác cày về nhà, người làm ruộng ngắm đụn rơm như "núi của" đứng bên hông nhà làm bác ngó hoài không chán mắt. Đụn rơm "càng lớn- càng to" thì bác càng mừng, càng bớt lo toan về chuyện củi lửa nấu cơm. Trường Sơn phía xa, trên thuợng ngưồn Thạch Hãn. Biết rừng lắm củi, thế mà người dân miệt ruộng làm sao có những chuyến viễn hành như thế.
"Hết gạo thì có Đồng Nai, hết củi thì có Tân Sài chở vô ", Tân Sài ở mô trên đó khi núi rừng trùng trùng điệp điệp? Người làm ruộng quần quật suốt ngày, đi sớm về chiều chẳng có khi nào vác búa tiều phu lên được rặng núi màu xanh lam xa tận trên thượng nguồn Thạch Hãn? Trên đó, rừng thiêng chắc chắn không biết cơ man nào là chuyện gỗ củi; nhưng làm răng mà lên tận trên ngàn để chuyển củi về chất đống được trước hiên nhà bác, thay cho được cái đụn rơm đơn sơ kia?
Cậu tôi còn kể cho tôi nghe rằng: năm xưa lúc còn hòa bình; lần nào Làng rủ nhau lên lấy củi Trường Sơn thì quả là một việc "trọng đại". Nào thuê đò, nào người chèo gồm thanh niên trai tráng trong làng. Chèo lên quá An Đôn, Như Lệ và xa hơn nữa tức là qua khỏi Trấm. Cơm nước mang theo ở lại trong rừng một hai ngày sau mới chèo đò về. Đò thì nhỏ vừa chở người vừa chở củi thì đặng bao nhiêu. Chia nhau củi, mỗi nhà chỉ được một mớ hỏn hon. Nhưng đó là chuyện mấy năm trước, lúc sau này chiến tranh càng lúc càng gắt thì chuyện chèo đò lên rừng lấy củi chẳng mấy ai dám.
*
Đụn rơm là hình ảnh thân thiết, lấp ló sau lũy tre xanh. Rơm ấp yêu mái tranh nghèo, đơn sơ bình dị như hơi ấm mẹ hiền mãi mãi thuơng con. Người đi xa về nôn nao chân bước, khi vừa thấy đụn rơm bến mái hiên nhà. Khói lam chiều nhè nhẹ tơ vương, êm ả tiễn đưa từng buổi chiều vàng. Rơm và khói, huơng quê bất tử nao lòng người xa xứ, đụn rơm làng là những gì mãi mãi hằn ghi!
BÌNH THUẬN
30 năm sau (2017)
NHỚ MẸ NHỚ LÀN KHÓI LAM CHIỀU
*
Hôm nay (1997-2021) lúc ngắm lại hình ảnh mẹ tôi cười tươi bên đụn rơm quê ngoại, thế mà gần hai mươi lăm năm. Mẹ tôi về lại Cam Bình, Bình Thuận, nay thân già còm cõi, lần hồi trí não lu mờ. Cho đến hôm nay đầu năm 2021, lúc tạ từ dương thế, mẹ tôi không ngờ lần về quê năm đó là lần cuối cùng trong đời, vĩnh viễn không còn cơ hội về quê thêm lần nào nữa.
Dù sao, lúc ngắm lại tấm hình mẹ tôi tươi cười bên đụn rơm quê ngoại, tôi tin mẹ tôi có phần nào mãn nguyện trong một chuyến về thăm lại quê hương. Một chuyến về làng, được cười vui bên đụn rơm bà con thân thuộc, ấm áp tình quê.
hình: đường về làng ngoại tôi, dẫn vào người cậu họ, Võ thế Hòa ( tự Dâu)
Một lúc nào đó trong tương lai, các đạo diễn có thể sẽ khó khăn lắm mới dàn dựng được mái nhà tranh nhằm làm phim ảnh. Chắc hẳn họ phải lắm công phu nếu muốn làm thêm một đụn rơm bên cạnh mái tranh nghèo cho hợp hình ảnh ngày cũ. Riêng đối với người viết, nhớ hình ảnh đụn rơm là nhớ về thôn cũ, một trời Quảng Trị...bao ký ức hiện về tiếng mõ, tiếng kẻng, bập bùng những ngọn đuốc lập lòe trong đêm từ một buổi làm phim bên đụn rơm kế bên nhà ngoại...những khuôn mặt trai trẻ thân yêu, các chú Nguyễn Bích, Trương Đá...ngày xưa từng sống bên con đường Lê văn Duyệt, một thành phố xa xưa...
Cảnh "cày sâu cuốc bẫm" sẽ biến mất trong cái nghề làm ra " hột ngọc của trời". Hình ảnh "lấy rơm đun bếp" chắc sẽ nằm trong "kho tàng" cổ tích mà thôi. Có ai trong chúng ta vẫn còn may mắn nhìn được hình ảnh đụn rơm trong một lần thăm quê. Xa xa, lấp ló sau lũy tre làng, có vài làn khói cơm chiều nhẹ tỏa. Khói bay như giục chân lữ khách bước nhanh. Người về thăm vừa nôn nao bước mà nghe trong lòng đầy ắp tình quê ./.
ĐHL last edition
3/9/2025
chỉnh bản lần cuối
11/4/2022 San Jose USA
by ĐHL
No comments:
Post a Comment