Wednesday, January 3, 2024

ĐẶC THUYẾT TUƠNG ĐỐI VÀ PHUƠNG TRÌNH E = mc2 THẬT QUÁI DỊ SO VỚI VẬT LÝ THÔNG THƯỜNG


                          TỔNG HỢP 

Những Điều kỳ lạ trong Đặc Thuyết tuơng Đối của Bác Học Albert Einstein 

chào bạn đọc năm mới 2024

  Năm 1905, Phuơng trình E = mc là nội dung chính hay còn được coi là "sản phẩm chính" của ĐẶC THUYẾT TUƠNG ĐỐI dù vào thời đó ít ai tin. Dù sao, Albert Einstein và một số bác học khác vẫn tin vào những suy nghĩ chính ông  khi kiểm chứng  về "thái độ" của ánh sáng đối với nền tảng vật lý nhân loại vào những thập kỷ  có ít người tin vào lý thuyết đó.
Đặc thuyết đó có những tính chất, sẽ đề cập vào phần dưới:

 *càng lao nhanh thời gian đi chậm lại-"moving clocks run slow" là gì?
Twin Paradox là gì ?
*vật chất hay khối lượng (mass) không bao giờ vượt qua tốc độ ánh sáng, và tốc độ ánh sáng là giới hạn cuối cùng của nó. Tại sao thế?

*khi di chuyển với tốc độ kế cận với vận tốc ánh sáng mọi công thức về động tử bình thường đều khác đi. Thật lạ lùng?

***

  1- Khi một động tử lao đi với tốc độ gần tốc độ của ánh sáng vd 200 ngàn km/giây, và phát đi một tia sáng thì tốc độ một tia sáng phát ra từ động tử này cũng là tốc độ 300 ngàn km/giây cùng chiều của tia sáng.

2--Khi động tử đó lao đi với với tốc độ cũng 200 ngàn km/giây về phía nguồn sáng tức nghịch chiều với ánh sáng kia đang tới, tốc độ nguồn sáng tới gần động tử này cũng vẫn  300 ngàn km /giây

điều này thật 'quái lạ' so với vật lý bình thường?                                
                                        ***

           Albert Einstein (1879 - 1955)



    Đặc Thuyết Tương Đối (hay Lý Thuyết Tương Đối Đặc Biệt- the Special Theory of Relativity ) do bác học Albert Einstein (1879-1955) đề xướng lúc đầu vào năm 1905. Chúng ta TẠM GỌI nói đó là Đặc Thuyết (lý thuyết đặc biệt) do nó sinh ra trong trường hợp có những điều kiện rất đặc biệt, hơn nữa theo nhà bác học thì khả năng hiểu biết đòi hỏi phải toàn diện.

  Thuyết Tương Đối Tổng Quát được đề xướng lại vào năm 1915.

Ý Niệm tương đối trong Hệ Thời Gian Vũ Trụ- SpaceTime
Bác học hay nhà toán học Đức Hermann Minkowski  
(1864–1909) cho rằng ĐẶC THUYẾT TƯƠNG ĐỐI có thể được hiểu rõ trong hệ không gian bốn chiều
  Với hệ tọa trục bình thuờng, chúng ta có thể xác định điểm đứng của chúng ta: lấy ví dụ,"về đông 20 cây số lên bắc 5 dặm và đào sâu xuống 3 mét sẽ có kho tàng chôn ở đó".
 Đó là hệ thống không gian ba chiều cổ điển. Các bác học đương đại với bác học Einstein như Hermann Minkowski còn thêm một TRỤC thứ 4 nữa đó là trục THỜI GIAN VŨ TRỤ -SPACETIME

HỆ LIÊN TIẾN THỜI GIAN VŨ TRỤ-SPACETIME CONTINUUM 

THỜI GIAN LÀ MỘT ẢO NIỆM---QUÁ KHỨ HIỆN TẠI TƯƠNG LAI ĐỀU CÓ THẬT VÀ TRƯỜNG CỬU TRONG HỆ THỜI GIAN VŨ TRỤ TRONG  ĐẶC THUYẾT TƯƠNG ĐỐI ....

Với một đồng hồ nguyên tử atomic clock ,  kiểm chứng nhiều lần từ năm 1971 được thực hiện trên nhiều chuyến bay ngang qua Đại tây Dương. Một đồng hồ nguyên tử cài vào chuyến hành trình dài đường này. Đương nhiên chúng ta biết vận tốc nhanh nhất của máy bay có nhanh gì cũng chỉ là một phần quá nhỏ so với tốc độ ánh sáng , tuy vậy người ta cũng đo được độ biến thiên PHẦN TRIỆU CỦA GIÂY với thuyết "moving clocks run slow" khi có sự so sánh giữa 2 đồng hồ nguyên tử (atomic clock) , một đứng yên trên mặt đất và một di chuyển theo máy bay. Chuyện này đang hé lộ thuyết tương đối của Einstein là có thật ! 

  Trong vật lý, phạm trù Thời Gian Vũ Trụ -Spacetime là một mô thức toán học kết hơp giữa không gian  thời gian thành một dãi kết nối liên tục (interwoven continuum). Hình học Euclid xưa xem không gian gồm 3 chiều  (dài- rộng -sâu ). Nay Spacetime có thêm chiều thứ 4 đó là CHIỀU THỜI GIAN.


  QUÁ KHỨ HIỆN TẠI TƯƠNG LAI CŨNG TƯƠNG ĐỐI
Nói gọn lại, Einstein trong ĐẶC THUYẾT TƯƠNG ĐỐI, thời gian là TƯƠNG ĐỐI ...giả dụ ở một thiên hà rất xa hàng tỷ năm ánh sáng một hoạt động của người vũ trụ nào đó "ĐANG XẢY RA" nhưng đối với chúng ta nó đã là QUÁ KHỨ , hay ngược lại là TƯƠNG LAI đời 'cháu chắt chít' của chúng ta vậy.

[Hai thời gian chạy khác nhau ở đây không có nghĩa là hai "đồng hồ một nhanh một chậm" đó là trở ngại cơ khí của cái đồng hồ chỉ giờ. Thời gian trong thuyết tương đối đối với Einstein chỉ là một ẢO NIỆM (ILLUSION) vì nó không nhất quán. Quá khứ hiện tại và ngay cả tương lai; trong Hệ LIÊN TIẾN SPACETIME CONTINUUM

 SpaceTime đang tồn tại mãi. 

  Ý niệm này đưa chúng ta đến các giả thuyết khoa học giả tưởng ... về lại quá khứ để  nói chuyện với  người xưa như anh hùng Nguyễn Huệ và đi đến... "tương lai" để thấy được xã hội chúng ta vào năm 3000 chẳng hạn hay sao?!!! ]

 Tại sao chúng ta gọi spacetime là một dãi liên tu bất tận (continuum)?
 
  Trong vô tận khoảng khắc (instant) xuất hiện của môt vật trong không gian nó là sự kết nối của vô tận (infinitive) khoảnh khắc (instants) đó sự liên kết với điều kiện hoàn toàn không có sự mất mát của điểm nào trong không gian cả. Nói như thế, chiều thời gian (time dimension) của Spacetime là chiều thứ 4 không thể thiếu trong lý thuyết vũ trụ và khác  với không gian 3 chiều  của hình học Euclid (dài rộng cao)

  Đặc Thuyết của Einstein khám phá khi con người ta di chuyển với vận tốc gần kề với vận tốc ánh sáng (gần 300,000cs/giây) mọi thứ xảy ra khác với điều chúng ta thuờng nghĩ. Chúng ta càng di chuyển nhanh chừng nào thì đồng hồ chỉ thời gian chúng ta mang theo chậm lại chừng đó so với những ai còn đứng yên không di động theo chúng ta. Thời gian, đối vói các động tử di chuyển kể trên có thay đổi. Thời gian và không gian đúng ra là hai thực tế tách biệt giờ đây là một thể, đó gọi là hợp thể - Spacetime ; rút gọn  chúng ta nói " đồng hồ lao đi tốc độ gần với ánh sáng thì thời gian chạy chậm lại "- moving clocks run slow !



HAI ĐỊNH ĐỀ CỦA EINSTEIN





Lý thuyết Tương Đối của Einstein dựa trên Hai Định Đề  căn bản 

(gọi là định đề do không thể chứng minh hay chưa chứng minh ra)


 *1- Luật vật lý bình thuờng trong đời sống mà chúng ta thấy bất cứ phần tử nào trong không gian đều nằm trong hệ thống 3 chiều giống nhau đó là DÀI /RỘNG cùng TRÊN/DƯỚI đó là không gian ba chiều. Hệ quy chiếu này áp dụng lên mọi hoàn cảnh cho chúng ta hàng ngày mà chúng ta vẫn thấy- đó là dung tích, thể tích, vị trí một vật...


Định Đề 2- Tốc độ ánh sáng là bất biến. Nói như vậy trong môi trường chân không như không gian, tốc độ ánh sáng luôn luôn giống nhau dù bạn có đi theo hay đi ngược chiều với nó bất cứ tốc độ nào.

  Chuyện này rõ ràng quá lạ đối với chúng ta  . Tại sao vậy?

ví dụ chúng ta đuổi theo chiếc xe đò chạy 30 cây số giờ , trong lúc vận tốc chúng ta là 10 cây số giờ thì theo quy luật vật lý bình thuờng chiếc xe đò chỉ di chuyển với tốc độ chỉ còn 20 cây số giờ đối với chúng ta thôi. Trong hệ thống quy chiếu 3 chiều bình thuờng điều này chúng ta dễ hiểu , hiệu số tốc độ hai động tử đồng chiều và tổng số tốc độ nếu là nghịch chiều.

 Theo Einstein, với định đề 2 mọi chuyện khác với chúng ta nghĩ.

Giả dụ, chúng ta ngồi trên một hỏa tiễn di chuyển với tốc độ rất nhanh 100,000 cây số một giây từ đây chúng ta chiếu ra một tia sáng ; bình thuờng chúng ta nghĩ rằng giờ đây vận tốc tia sáng đó di chuyển xa chúng ta giờ chỉ còn 300000-100000 = 200000 cây số /giây xa chúng ta ...
  -SAI !
Định Đề thứ 2 của Einstein cho rằng tia sáng đó vẫn có tốc độ 300000 cây số/1 giây đối với chiếc hỏa tiển đó. Cũng tương tự chiếc hỏa tiễn có tốc độ 100,000 cây số/giây  đó đang lao về một nguồn sáng ; bình thuờng chúng ta cho rằng tốc độ gần nhau giờ đây là
 100,000+300,000 =400,000 cây số/1 giây ?
 - cũng SAI !
Ánh sáng đó tiến gần chúng ta cũng 300 ngàn cây số 1 giây thôi.

Nếu bất cứ trường hợp nào tốc độ ánh sáng  cũng  giữ nguyên thì có cái gì xảy ra chăng ? 

     - đó là THỜI GIAN  Do THỜI GIAN cũng LÀ TƯƠNG ĐỐI

  Nói tới đây chúng ta nghe có vẻ ly kỳ, hình như thời gian không còn cố định nữa chăng? Thật vậy, với hệ thống Thời Gian Vũ Trụ (spacetime) không còn bất biến nữa. Nó có thể bị lệch lạc, thay đổi . Di chuyển càng nhanh thời gian càng chạy chậm lại, với điều kiện không bình thuờng, có nghĩa là gần với tốc độ ánh sáng một tốc độ  quá nhanh lấy thí dụ chúng ta bay vòng quanh 7 lần địa cầu trong 1 GIÂY đồng hồ. Thời gian chạy khác nhau ; không có nghĩa tương tự là cái đồng hồ yếu pin thì chạy chậm lại như trong nhà chúng ta. Mà một giây của một động tử lao với vận tốc gần ánh sáng nó đã còn một nửa so với 1 giây của một vật thể đang đứng yên.

 Một chuyện đầy kịch tính đối với cuộc đời bình thuờng nhưng trong THUYẾT TƯƠNG ĐỐI  (Relativity) thời gian tự nó chạy khác nhau đối với hai người, lấy thí dụ, di chuyển với hai tốc độ khác nhau. Ngang đây chúng ta tạm quên đi các vận tốc bình thuờng trong cuộc đời. 

TWIN PARADOX ?




CÂU CHUYỆN Y NHƯ "TỪ THỨC VỀ LẠI CÕI TRẦN "  

CHUYỆN NGHỊCH LÝ CỦA 2 ANH EM SONG SINH DICK VÀ JOHN

 Chúng ta lấy thí dụ, Dick là một phi hành gia NASA 30 tuổi từ giã mũi Canaveral Hoa Kỳ trong một hỏa tiễn tốc độ siêu nhanh (gần tốc độ ánh sáng) vào năm 2010 với một sứ mạng 10 năm tới một tinh cầu gần chúng ta xa tới 5 năm ánh sáng chẳng hạn. Sau thời gian ngắn di chuyển với tốc độ bằng 90% tốc độ GẦN TỐC ĐỘ ánh sáng cho  là 270,000 cây số 1 giây. Với Dick mọi thứ trong phi thuyền của anh trông có vẻ bình thuờng vẫn chạy đều không có gì lạ. Dưới địa cầu , người anh  sinh đôi với Dick là John, sau 10 năm chờ đợi sứ mạng chiếc phi thuyền của Dick trở về an toàn. 

Bây giờ đây chuyện lạ XẢY RA :

Thời gian trong phi thuyền của Dick đi và về chỉ chạy đúng 5 NĂM tức Dick mới 35 tuổi , nhưng tại địa cầu người anh sinh đôi với Dick là John đã là 40 tuổi !

Giờ hai anh em sinh đôi một người 35 tuổi và một người là 40 tuổi.

Với tốc độ gần suýt soát với ánh sáng, "moving clocks run slow"  đang áp dụng với tốc độ 90% tốc độ ánh sáng thời gian trong phi thuyền chỉ còn 1/2  tương đối với người ở lại trên địa cầu. Trong khi thời gian trôi đi 10 năm đối với người anh sinh đôi ở lại là John, trong lúc đó chỉ có 5 năm trôi qua với phi hành gia Dick vì đồng hồ của Dick chỉ chạy với tốc độ 1/2 đối với đồng hồ trên địa cầu. Nên nhớ rằng trong khi Dick có thêm 5 tuổi, anh vẫn cảm thấy rằng thời gian trôi đi bình thuờng trong phi thuyền đúng như 5 năm ; không phải cái chuyện trường sinh thêm 5 tuổi, cũng phải chuyện đồng hồ hư chạy chậm lại 5 năm như trên địa cầu lo nghĩ mà chính THỜI GIAN TRONG PHI THUYỀN CHẠY CHẬM LẠI MỘT NỬA !!! 

Câu chuyện này gọi là chuyện nghịch lý từ đôi song sinh (Twin Paradox)

dù sao chúng ta cho rằng đây cũng là giả thuyết do có thứ phi thuyền nào của khoa học hiện đại di chuyển được với vận tốc gần với ánh sáng đâu?

======================= 

 KHỐI LƯỢNG mass CŨNG TƯƠNG ĐỐI
 KHỐI LƯỢNG mass CŨNG KHÔNG PHẢI BẤT BIẾN TRONG THUYẾT TƯƠNG ĐỐI

  Theo vật lý thông thuờng khối lượng (mass) là đại lượng không thay đổi thuờng được viết tắt là (m). Trọng lượng của một vật là tích số khối lượng (m) và gia tốc trọng trường (g) (gravitational acceleration )  hay  P=mg  gia tốc trọng trường càng cao thì trọng lượng càng nặng. tuy rằng  trọng lượng một vật  trên mặt trăng chỉ bằng 1/6 trên trái đất vì gia tốc trọng trường trên mặt trăng yếu bằng 1/6 trên địa cầu nhưng khối lượng m vẫn không thay đổi.

  Trong thuyết TƯƠNG ĐỐI của Einstein khối lượng -mass (m) không còn cố định nữa , nó thay đổi theo vận tốc và sự thay đổi này rõ rệt khi nó di chuyển với vận tốc cận kề với ánh sáng. Einstein cho rằng đạt đến vận tốc 90% tốc độ ánh sáng khối lượng (m) sẽ gấp đôi. Tốc độ 99% của ánh sáng thì khối lượng tăng cao gấp 7 lần ! 


CÓ CÁI GÌ ĐẠT ĐẾN VẬN TỐC ÁNH SÁNG CHĂNG?


  Einstein lý luận rằng một vật chất đạt đến vận tốc ánh sáng thì khối lượng biến đổi đến vô biên (infinitive) . Chuyện đời thuờng khối lượng càng tăng thì càng cần nhiều năng lựợng để chuyển động nó . Khi khối lượng tăng đến vô biên thì năng lượng phải vô biên ĐIỀU NÀY KHÔNG THỂ CÓ ; do vậy không có cái gì di chuyển NHANH HƠN TỐC ĐỘ ÁNH SÁNG.


 Chúng ta đang sống trong một vũ trụ có sự chi phối của Đặc Thuyết Tương Đối , một nơi không gì đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Tuy vậy Einstein và các bác học sau này đang có một mơ ước về những gì "NHANH HƠN " tốc độ ánh sáng. Giấc mơ này đã và đang đưa hoạt động nghiên cứu của các bác học thế giới đi vào thế giới của nguyên tử gồm Hạt (particles) và các hạt HẠ NGUYÊN TỬ (sub atomic particles). Những điều này có vẻ bất thuờng đối với Thuyết Tương Đối.


 Đó là gì chúng ta thấy tương tự với khoa học hiện đại với Máy Gia Tốc Hạt Lớn tai Châu Âu (Large Hadron Collier LHC) là cỗ máy gia tốc hạt khởi động vào ngày 10/9/2008.  LHC gồm một ống vòng (ring)liên hợp dài 27 km , kết tạo bởi hệ từ trường siêu dẫn (superconducting mangnets) có khả năng thăng hoa năng lực đưa vận tốc hạt truyền dẫn các hạt (particles) trong ống này lên suýt soát với tốc độ ánh sáng.


KIỂM CHỨNG THUYẾT TƯƠNG ĐỐI : CÓ THẬT KHÔNG?




  Với một đồng hồ nguyên tử atomic clock ,  kiểm chứng nhiều lần từ năm 1971 được thực hiện trên chuyến bay ngang qua Đại tây Dương. Một đồng hồ nguyên tử cài vào chuyến hành trình dài đường này. Đương nhiên chúng ta biết vận tốc nhanh nhất của máy bay có nhanh gì cũng chỉ là một phần quá nhỏ so với tốc độ ánh sáng , tuy vậy người ta cũng đo được độ biến thiên PHẦN TRIỆU CỦA GIÂY với thuyết "moving clocks run slow" khi có sự so sánh giữa 2 đồng hồ nguyên tử (atomic clock) , một đứng yên trên mặt đất và một di chuyển theo máy bay. Chuyện này đang hé lộ thuyết tương đối của Einstein là có thật !



                                          *****

E=mc2 KHAI SINH RA BOM NGUYÊN TỬ


  Trong vật lý bình thường vật chất (matter-mass) và môi trường cần năng lượng nào đó để biến đổi nhiều thứ .
Ví dụ , thuòng người ta định nghĩa động năng (kinetic energy ) 
là năng lượng làm cho vật chuyển di . Nhiệt năng (heat) làm cho nó nóng lên , điện từ (electromagnetic) là năng lượng làm cho nó phát sóng . Các năng lượng tuơng tác ,biến đổi, qua nhiều dạng thức  di chuyển, nhiệt, sóng do. Nó không bao giờ bị huỷ diệt (destroyed) cũng như con người chẳng ai sinh ra (create) được vật chất hay năng lượng, nhưng chỉ có khả năng ứng dụng kỹ thuật và kiến thức để tạo ra (make) vật chất khác, chuyển đổi, lan truyền, tác động vật chất ra năng lượng.ví dụ: dùng củi nấu nồi nước tạo thành nước sôi và hơi nước . Kết hợp các nguyên tố, hợp chất v v tạo thành chất mới, làm phát sóng đài truyền thanh truyền hình v v

   Vật lý bình thường quan niệm khối lượng ( mass) là đại lượng vật chất nó đo đươc ví dụ kg, g , và sự khó khăn hay dễ dàng khi di động ví dụ nặng nhẹ khác nhau trong di động. Trong thế giới mới của Einstein , khối lượng mass là tổng số năng lượng hiện diện trong vật thể đó, bất kể nóng lạnh ra sao , di động hay đứng  yên, có phát sóng hay không , cũng không cần thiết  . Năng lượng E trong ý tưởng EInstein là một phạm trù khác biệt với năng lượng trong vật lý bình thường (cổ điển). Mass của Einstein là sự tập trung ưu việt của dạng năng lượng , vật chất này có khả năng chuyển qua thể khác và có thể tái hồi. Vật chất và năng lượng là 2 trạng thái khác xa nhau hoàn toàn trong cùng một vật thể, chuyện này xem chừng xa lạ đồi với những nguoi trung bình .[Einstein]
  Vấn đề chúng ta đặt ra là sự thực chúng ta có khả năng chuyển hóa nó thành năng lượng E (Einstein) được hay không?

 Phương cách duy nhất để khối lượng 1 kg vật chất ,ví dụ nước chẳng hạn,  này biến thân hoàn toàn thành năng lượng E thì 1 kg nước đó phải bị hủy diệt  (annhilated ) toàn bộ. Đây là tiến trình hủy diệt TÍNH VẬT CHẤT của chúng, nó đòi hỏi phải có khối lượng tương đồng PHẢN VẬT CHẤT bằng nó, tương đồng khối lượng nhưng mang toàn âm điện (negative charge).

loại PHẢN VẬT CHẤT có HIỆN HỮU và người ta thấy được nó . Đó là các HẠT HẠ NGUYÊN TỬ (subatomic particles)-đứng sau và nhỏ hơn cấu trúc căn bản của nguyên tử-trong quá trình phân rã phóng xạ. Một thứ chúng ta có thể thực hiện được trong phòng thí nghiệm.
   Nhưng hạt này có tính tự hủy và khó sống còn cùng lúc đối với các chất liệu bình thường như nước. Với lý do này chúng ta không thể nào đem 1 kg nước trộn lẫn với 1 kg "phản vật chất nước" để cho ra năng lượng được.
   Hiện tượng đặc biệt của các hạt căn bản như PROTON chẳng hạn nó có tính nối kết. Nhân của hydrogen gồm chỉ 1 proton đơn thuần thôi. Nếu có 2 protons thì nó lại là nguyên tử helium. Đây là lối giải thích cách thành lập các nguyên tố... và cứ như thế tiến trình này cứ nhân lên mãi có nghĩa tăng số protons trong nhân (nucleus) lên cho đến các nguyên tố NẶNG NHẤT; thí dụ: Uranium trong nhân có 92 protons.


   Chúng ta cũng có thể kết hợp hai proton tự do (hydrogen nuclei) với nhau để có một hạt nhân helium ban sơ [ Deuteron -hình trái ]. Tiến trình này đòi hỏi hai proton này lao vào nhau với tốc độ cực  nhanh. Chuyện này xảy ra ở mặt trời chúng ta trong phản ứng sơ khai bước 1 (step 1 )
 1H + 1H --> 2H + antielectron + neutrino (hinh tren)

  nhưng với kỹ thuật tối tân của con người như lasers, từ trường, hay tại tâm của bom nguyên tử chúng ta có thể thực hiện được và gọi đó là: PHẢN ỨNG TỔNG HỢP HẠT NHÂN (nuclear fusion)   Có gì thú vị khi chúng ta ép buộc tổng hợp hạt nhân như thế kia? Khi các protons (dương điện tử) bị tổng hợp nó sẽ mất đi một phần khối lượng tương đương 0.7% tổng số khối lượng tổng hợp [sự mất đi từ các hạ nguyên tử positron và neutrino trong hình trên ]. 

Nếu chúng ta chuyển ngược khối lương này ra năng lượng theo công thức E = mc2 thì năng lượng to lớn biết bao nhiêu !

  Nhà máy hạt nhân (nuclear reator) ứng dụng ý tưởng này trong các lò phản ứng nơi các hạt hạ nguyên tử (subatomic particle) còn gọi là neutrons (trung tử) bị bắn tại nhân của các nguyên tử Uranium và nhân U này bị phân tách ra các nguyên tử nhỏ hơn. Tiến trình phân hạch này tạo ra năng lượng lớn nhưng mất mát nguyên liệu lại ít . Đó là năng lượng nguyên tử hay năng lượng hạt nhân.

    Từ những nguyên tố nặng hơn sắt [Fe] tất cả đều không ổn định. Có một số lại RẤT KHÔNG ỔN ĐỊNH. Có nghĩa rằng nhân của chúng quá nhiều dương điện tử hay có nhiều dương điện (positively charged protons) chúng đẩy lẫn nhau đưa đến tình trạng phân tán bất cứ lúc nào! Nên chúng ta gọi NHỮNG NGUYÊN TỐ NÀY CÓ TÍNH PHÓNG XẠ. thí dụ, nguyên tố Uranium có tính phóng xạ. Từng giây đồng hồ hàng loạt nguyên tử Uranium tan rã ra thành từng nguyên tố mới và dĩ nhiên là nhẹ hơn vì ít protons hơn. Lại có một lượng nhỏ bị mất đi và nó đã chuyển hóa thành năng lựơng một lần nữa theo công thức E=mc2. Tiến trình này gọi là PHẢN ỨNG PHÂN HẠCH HẠT NHÂN (nuclear fission)

1 kg chất liệu hạt nhân có thể tạo ra 
9 x 1016  joules 

Hay tương đương với 40 mega ton TNT  (40 triệu tấn TNT)

 Đó là năng lượng của một nhà máy điện có công suất 1000 tỷ watt dư sức cho 10 triệu căn nhà dùng trong 3 năm. 
Phản ứng phân hạch chỉ làm mất một ít khối lượng (các dạng subatomic bị hoá thành năng lượng, còn đa số đều nằm thành các chất đồng vị (ví dụ Ụranium 235 thành Baryum   và Kryton)

  Cả hai phản ứng hạt nhân nói trên đều có phóng thích một khối lượng nhỏ vật chất để chuyển hóa thành năng lượng, một năng lượng khổng lồ theo công thức Einstein .
 Phản ứng tổng hợp hạt nhân -nuclear fusion- là những vũ khí mới hơn đang có trên nhiều đầu đạn hạt nhân hiện đại. Phản ứng phân hạch (nuclear fission) xem chừng đã cổ hơn và nó ít sức mạnh hơn hiện nay, tuy thế cũng gây bao tang tóc trong Thế Chiến Hai (NAGASAKI + HIROSHIMA) hay các vụ tai nạn tại nhà máy điện hạt nhân .


Leo Szilard appears before the U.S. Senate Atomic Bomb Committee in December 1945 
Leo Szilard khoa học gia bạn của Einstein khẩn khoản yêu cầu với QH Mỹ xây dựng gấp A Bomb

  Bác học Albert Einstein từng cảnh báo công thức này sẽ đưa nhân loại về đâu? Khoa học đang phục vụ chiến tranh vào thời đại của ông. Trước đại họa nhân loại khi quân phát xít Hitler và Nhật đang ngày đêm ráo riết hoàn thiện những quả bom nguyên tử đầu tiên, mới đào tỵ sang Hoa kỳ lý thuyết của nhà bác học đã gián tiếp giúp hai người bạn khoa học gốc Đức và Hungary  khác Leo Szilard và Eugene Wigner năm 1939, hai người này đã khẩn khoản với TT Franklin D Rosevelt xin ngân sách hoàn thiện gấp dự án Manhattan.(Manhatten Project) để sở hữu vũ khí nguyên tử trước phe Trục (phát xít) có thể làm ra thứ vũ khí ghê hồn đó./.



ĐINH HOA LƯ 
EDITION  
3.1.2024 

===================================


CÁC NGUỒN THAM KHẢO 

EINSTEIN'S SPECIAL RELATIVITY THEORY

-http://blogs.britannica.com/2010/09/e-mc2-the-unforgettable-equation-of-einsteins-miracle-year-picture-essay-of-the-day/
-https://www.theguardian.com/science/2014/apr/05/einstein-equation-emc2-special-relativity-alok-jha
-https://www.theguardian.com/science/2014/apr/05/einstein-equation-emc2-special-relativity-alok-jha
http://www.worsleyschool.net/science...emc2/emc2.html

https://www.utdallas.edu/~parr/chm5414/54140903.html\

EINSTEIN REGRETTED HIS ROLE IN THE ABOMB'S CREATION

CHUYỆN KỂ - RA TRẠI (PHẦN 1)



CHÀO BẠN ĐỌC
TẤT CẢ HỒI KÝ NÀY HOÀN TOÀN KHÔNG HƯ CẤU 
TRÂN TRỌNG 

Đinh Hoa Lư





Số phận các trường trung học ở Quảng Trị trong thời chiến

 

 



Lời tác giả : Cái gì xẩy ra mà không ai ghi chép sẽ bị quên đi. Uổng! Vì vậy, tôi có ý định ghi chép những gì diễn ra có liên quan đến nhiều người mà tôi có trải nghiệm nhiều ít. Biết đâu đời sau có người cần tham khảo! Tuy nhiên, sự hiểu biết của tôi có hạn;bạn đọc thấy gì sai, sót, chỉ giùm, đừng ngần ngại! Tôi xin cảm ơn.

Hôm nay, tôi viết về số phận các trường trung học ở Quảng Trị, trong vùng thuộc quyền của Việt Nam Cộng Hoà, từ khi hình thành cho đến 1975. Còn trong vùng thuộc quyền Việt Minh trước đây và Mặt Trận Giải Phóng sau này, bạn nào có trải nghiệm, viết chia xẻ cùng bạn đọc với!

Bậc trung học ở Quảng Trị từ thời Pháp thuộc qua Đế Quốc Việt Nam (tháng 3- 8/1945) đến Quốc Gia Việt Nam (1948 – 1955)

Theo thầy giáo Lê Chí Phóng – đã trên 90 tuổi – hiện ở làng Câu Nhi, xã Hải Tân, huyện Hải Lăng, vào cuối thời Pháp thuộc, trước năm 1945, ở tỉnh Quảng Trị, chỉ có một trường trung học tư thục duy nhất là trường Sainte Marie còn gọi là trường Sainte Marie Quảng Đức của Thiên Chúa Giáo mở vào những năm đầu thập kỷ 1940 (năm học 1942 – 1943 ?) ở tỉnh lỵ Quảng Trị. Trường chưa có khoá học sinh nào thi Cao Đẳng Tiểu Học (bằng Thành Chung) thì giải tán vì những biến cố chính trị dồn dập xẩy ra trong năm 1945: Nhật đảo chánh Pháp, nạn đói ở miền Bắc và Bắc miền Trung rồi Việt Minh giành chính quyền, rồi chiến tranh chống Pháp tái chiếm. Sau khi trường Sainte Marie Quảng Đức giải tán, dưới thời Đế Quốc Việt Nam do cụ Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng, bác sĩ Phan Văn Hy – người làng Nhan Biều, Triệu Phong – làm tỉnh trưởng Quảng Trị, mở trường trung học tư thục Kỉnh Chỉ(tên hiệu của bác sĩ Phan Văn Hy) thay thế trường Sainte Marie Quảng Đức, nhưng không được bao lâu cũng giải thể vì Đế Quốc Việt Nam bị mất chính quyền về tay Việt Minh.

Khi chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Việt Minh) thành lập, một trường trung học công lập ra đời, đặt tại ty Tiểu Học (lúc ấy gọi là ty Kiểm Học). Chiến tranh Việt – Pháp bùng nổ; năm 1947, trường tản cư về vùng Triệu Phong(1).

Mãi đến năm 1950 (tính năm cụ Hồ Văn Hải mở trường), ở tỉnh Quảng Trị,  dưới chính thể Quốc Gia Việt Nam (Bảo Đại làm quốc trưởng) mới có mở một trường tư thục lấy tên là trường trung học tư thục Quảng Trị; qua năm 1952, trường này được công lập hoá và, sau đó, đổi tên là trường trung học Nguyễn Hoàng tồn tại cho đến năm 1975. Xin mở ngoặc, trừ các tỉnh lỵ lớn và các đô thị lớn đã có những cơ sở giáo dục trung học lập ra từ thời Pháp thuộc để lại, chính phủ Quốc Gia Việt Nam, đầu thập kỷ 1950, mới lên kế hoạch mỗi tỉnh mở một trường trung học. Trường Nguyễn Hoàng ra đời theo kế hoạch đó và ở giai đoạn đầu (1950 – 1954), chỉ mở bậc đệ I cấp (trung học cơ sở), ở giai đoạn sau (1954 – 1975), mở dần thêm các lớp bậc II cấp (trung học phổ thông).

 

Bậc trung học ở Quảng Trị dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà (1955 – 1975)

Sau hiệp định Genève, từ 1954 đến 1975, tỉnh Quảng Trị thuộc quyền Quốc Gia Việt Nam rồi Việt Nam Cộng Hoà, kể hết, có 09 quận (từ ngữ bây giờ là huyện): quận Trung Lương (1954 – 1967), quận Gio Linh, quận Cam Lộ, quận Hướng Hoá (giải tán năm 1968), quận Ba Lòng (1955 – 1964), quận Triệu Phong, quận Hải Lăng, quận Mai Lĩnh (lập năm 1965) và quận Đông Hà (lập năm 1968). Trong thực tế, những quận: Ba Lòng, Hướng Hoá, Trung Lương ở giai đoạn sau không còn vì chính quyền đã giải tán do mất an ninh; còn các quận: Đông Hà, Mai Lĩnh mới thành lập ở giai đoạn sau. Điều này xin được nhắc lại để bạn đọc khỏi thắc mắc khi chính phủ Việt Nam Cộng Hoà, vào cuối thập kỷ 1950 đầu thập kỷ 1960, chủ trương mỗi quận có một trường trung học mà ở tỉnh Quảng Trị số quận thì nhiều trong khi số trường trung học cấp quận lại ít – trước sau có 05 trường.

Chính thể Việt Nam Cộng Hoà được tuyên cáo 1955, vài năm sau mới tương đối ổn định để tính chuyện phát triển. Về giáo dục, tỉnh Quảng Trị mở những trường trung học cấp quận sau đây: trường trung học Gio Linh mở bậc đệ I cấp năm 1959; các trường trung học Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng mở bậc đệ I cấp năm 1960; trường trung học Đông Hà mở bậc đệ I cấp năm 1962. Qua đầu thập niên 1970, trường Hải Lăng, khi còn ở Diên Sanh, có mở được hai lớp 10 và 11 (2) ; trường Đông Hà mở lớp 10 vào năm học 1971 – 1972.

Ở các trường công lập kể trên, học sinh nam nữ học chung; đầu thập niên 1970, một trường nữ trung học ở tỉnh Quảng Trị đang vào thời kỳ chuẩn bị; một số lớp đệ I cấp chỉ học sinh nữ đã được hình thành ở trường Nguyễn Hoàng, đợi trường nữ ra đời thì chuyển qua; nhưng chiến tranh ùa tới, thôi, dẹp luôn chuyện mở trường nữ trung học Quảng Trị!

Ngoài các trường công lập ra, Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, hội phụ huynh học sinh ở vài địa phương còn vận động mở các trường trung học tư thục.

Ở tỉnh lỵ Quảng Trị, có 3 trường trung học tư thục:trung học Bồ Đề, trung học Thánh Tâm và trung học Phước Môn(dành cho nữ học sinh). Trường Bồ Đề của Phật Giáo, trường Thánh Tâm của Thiên Chúa Giáo, ở giai đoạn đầu, chỉ mở bậc đệ I cấp, ở giai đoạn sau, mở thêm bậc đệ II cấp; trường Phước Môn của Thiên Chúa Giáo chỉ mở bậc đệ I cấp (3).  Trường Bồ Đề và trường Thánh Tâm hình như mở vào giữa thập kỷ 1950 (?); còn trường Phước Môn trong thập kỷ 1960 (?).

Ở thị tứ Đông Hà, có trường trung học bán côngmở bậc I cấp năm 1956 do Hội Phụ Huynh đứng ra vận động, và đóng cửa năm 1969 vì thiếu học sinh;trường trung học Đắc Lộ bên Thiên Chúa Giáo mở năm 1962 bậc đệ I cấp, đến năm 1968 mở dần thêm các lớp bậc II cấp. Trường Bồ Đề Đông Hàbên Phật Giáo mở năm 1967 bậc I cấp và năm học 1971 – 1972 mở thêm lớp 10.

Ở quận Cam Lộ, trường trung học bán công mở năm 1959, đến năm 1966, trường đóng cửa vì thiếu học sinh.

Ở quận Triệu Phong, trường trung học tư thục Chân Lý bên Thiên Chúa Giáo mở vào những năm cuối thập kỷ 1950, đặt tại giáo xứ Bố Liêu; trường trung học Bồ Đề Triệu Phong bên Phật Giáo (4) mở trong thập kỷ 1960 trước ở làng Vĩnh Lại xã Triệu Phước, sau chuyển lên làng Võ Thuận xã Triệu Thuận; trường trung học tư thục Khai Trí(5) đặt ở làng Đại Hào, xã Triệu Đại, đặc biệt trường này do một cá nhân lập năm 1965, đó là cụ Trần Văn Thạnh, người làng Quảng Lượng, xã Triệu Đại – một nhân sĩ ở Quảng Trị. Cả 3 trường trung học tư thục ở quận Triệu Phong chỉ mở bậc I cấp (?).

Ở quận Hải Lăng, ở xã Hải Ba (trong địa phận làng Đa Nghi và làng Cổ Luỹ), có trường trung học tư thục Quảng Đức (6) do bên Thiên Chúa Giáo mở năm 1964; đến sau năm 1968 trường này đóng cửa. Ở quận Hải Lăng, trước năm 1972, còn có 03 trường trung học tư thục nữa: trường Minh Đức của Thiên Chúa Giáo ở Diên Sanh có đủ các lớp bậc I cấp, trường Tân Dân cũng của Thiên Chúa Giáo ở Mỹ Chánh mở 2 lớp 6 và 7; trường Bồ Đề Hải Lăng mở 2 lớp 6 và 7 (7);thông tin về các trường này còn quá ít ỏi.

Ở quận Gio Linh, khi dân dồn vào khu Quán Ngang, trường trung học tư thục Thanh Linhbên Thiên Chúa Giáo mở năm 1969.

Học sinh dù công lập hay tư thục đến trường mang đồng phục; nam thì quần xanh, áo chemise trắng, áo bỏ trong quần; nữ thì đa số áo dài, quần dài trắng; nam hay nữ mang dép có quai sau; khi trời tạnh, nắng, nam thì đội mũ hoặc đi đầu trần (từ ngữ lúc ấy gọi là “đầu dầu”), nữ thì đội nón lá. Phòng học, bàn ghế ở các trường tương đối đầy đủ, riêng về trường ốc, bên công lập ngó bộ thua bên tư thục: 06 trường (01 ở tỉnh lỵ và 05 ở các quận) chỉ có một dãy lầu ở trường tỉnh lỵ, còn lại là những dãy nhà trệt; trái lại, bên tư thục, trường Thánh Tâm, trường Bồ Đề ở tỉnh lỵ và trường Đắc Lộ ở Đông Hà là những trường có lầu.


Các trường trung học Quảng Trị tản cư vì chiến tranh

Năm 1967, trường trung học công lập Gio Linh giải thể vì khu phi quân sự và sát khu phi quân sự bạch hoá; thầy cô thuyên chuyển vào trường Nguyễn Hoàng ở tỉnh lỵ Quảng Trị, còn học sinh, tuỳ hoàn cảnh và điều kiện, muốn tiếp tục học ở trường công lập nào cũng được.

Đầu tháng 4/1972, quân giải phóng tràn chiếm tỉnh Quảng Trị từ mạn Bắc và Tây. Dân phần lớn tản cư vô các trại quanh thành phố Đà Nẵng; các trường trung học cũng tản cư vào theo dân.

Cả mùa hè năm 1972 là thời gian chạy của dân Quảng Trị: từ Quảng Trị vô Huế, từ Huế vô Đà Nẵng, Chu Lai … Đặc biệt khi quân cộng hoà mở chiến dịch tái chiếm những phần đất đã mất vào tay quân giải phóng (từ tháng 6/1972 đến tháng 9/1972), số dân Triệu Phong và Hải Lăng chưa chạy cũng chạy; thầy cô và học sinh cứ chạy cùng dân, chưa có điểm dừng chân, vì vậy, năm học 1971 – 1972, dù thiếu một học kỳ, phải đành coi như xong.

Qua năm học 1972 – 1973, các trường khai giảng lại. Đặc biệt, trường Bồ Đề Quảng Trị mở trước (khoảng đầu tháng 9/1972) với 2 chi nhánh: một ở Hoà Khánh và một ở Hoà Long (?); cùng lúc,trường Hiền Lương nghĩa thục (8) mở ở Hoà Khánh và ở Hoà Long. Trường Hiền Lương và trường Bồ Đề mở cả hai bậc đệ I cấp và đệ II cấp; trường Hiền Lương không thu học phí ở học sinh nhưng thầy cô dạy có trả tiền giờ; ngân khoản do các tổ chức tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lãnh vực từ thiện – nhân đạo giúp.

Sau hai trường Bồ Đề và Hiền Lương ít tháng là trường trung học tư thục Thanh Linh bên Thiên Chúa Giáo – nguyên ở Quán Ngang Gio Linh – phục hoạt ở Hoà Khánh (khu A); vào đây, trường Thanh Linh mở từ lớp 6 đến lớp 12.

Còn các trường trung học công lập đồng loạt mở khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10/1972, trách nhiệm vùng dân cư được phân bố như sau:

– Các trại bên Non Nước (Hoà Long): Trường Nguyễn Hoàng và trường Đông Hà trách nhiệm; trường Đông Hà chỉ mở đệ I cấp, còn trường Nguyễn Hoàng đủ cả đệ I cấp và đệ II cấp.

– Trại Hoà Cầm: Trường Hải Lăng trách nhiệm, mở từ lớp 6 đến lớp 10.

– Vùng liên trại Hoà Khánh: Trường Triệu Phong và trường Cam Lộ trách nhiệm; trường Cam Lộđặt ở khu D Hoà Khánh(9), chỉ mở bậc đệ I cấp;trường Triệu Phong trong năm học 1972 – 1973 đặt ở khu E Hoà Khánh chỉ mở bậc đệ I cấp, sang năm học 1973 – 1974 dời qua trại F Hoà Khánh mở thêm bậc đệ II cấp đến lớp 11. Ở Hoà Khánh, năm học 1972 – 1973, còn có một chi nhánh của trường Nguyễn Hoàng bên cạnh trường Hiền Lương nghĩa thục, có mở bậc đệ II cấp.

Trong thời gian tản cư vào các trại quanh Đà Nẵng, trường đặt tạm ở các nhà lớn bằng tôn (nguyên là kho hay xưởng) của quân đội Mỹ để lại, được ngăn phòng bằng những tấm ván ép có giá đỡ; nói là phòng nhưng không kín đáo chút nào, học sinh hai lớp ở hai phòng kế cận có thể thấy nhau, hai thầy giảng bài ở hai phòng kế cận át giọng nhau. Năm học 1972 – 1973, học sinh đi học phải đem theo ghế tự đóng có gắn tấm ván cao trước mặt chỗ ngồi. Qua năm học 1973 – 1974, các trường bên công lập được bộ Giáo Dục ở Sài Gòn cung cấp bàn ghế đầy đủ, các trường bên tư thục hình như cũng sắm đủ bàn ghế (?).

Đặc biệt chỉ có trường Thanh Linh ngay từ năm học 1972 – 1973, đã sử dụng phòng ốc, bàn ghế tương đối đàng hoàng; trường Thanh Linh là một dãy nhà vách gỗ mái tôn mới dựng, ngăn phòng bằng những bức đố gỗ kín đáo.

Ở các trại, trường nào cũng nhận con em Quảng Trị tạm cư trong vùng không kể quận nào – “cận đâu xâu đấy”; chẳng hạn, trường mang danh là Triệu Phong, nhưng học sinh thì có thể từ Cam Lộ, Gio Linh, Đông Hà, Hải Lăng, tỉnh lỵ Quảng Trị … chứ không nhất thiết phải từ Triệu Phong.


 

Các trường trung học Quảng Trị tái định cư trên đất Quảng Trị hay di cư đến tỉnh khác

Hiệp định Paris ký kết tháng 01/1973; trên nguyên tắc, tiếng súng ngừng nổ. Chương trình tản cư của dân Quảng Trị chuẩn bị chuyển qua chương trình tái định cư và khẩn hoang lập ấp.

Từ giữa năm 1973 đến giữa năm 1974, các trường dần dần rời khỏi các trại tạm cư.

Đầu tiên là trường Hải Lăng hồi cư về bản quán, có mở bậc đệ II cấp không, tôi đang tìm thông tin.

Trường Nguyễn Hoàng tái định cư tại khu tỉnh lỵ mới của tỉnh Quảng Trị ở bãi cát Hải Lăng. Trường Nguyễn Hoàng có từ lớp 6 đến lớp 12. Trường Đông Hà tái định cư trên vùng đồi Mỹ Chánh – nơi một số dân Đông Hà về định cư vì không thể hồi cư về Đông Hà đang thuộc quyền quản lý của chính quyền giải phóng; ở Mỹ Chánh, trường chỉ mở từ lớp 6 đến lớp 9.

Trường Triệu Phong tái định cư tại làng Ngô Xá Đông, thuộc xã Triệu Trung, không thể về địa điểm cũ tại làng Nại Cữu xã Triệu Đông được. Ở Ngô Xá Đông, trường Triệu Phong có từ lớp 6 đến lớp 11. Ngoài ra, trường Triệu Phong còn có một chi nhánh 05 lớp ở bãi cát Long Hưng, xã Hải Phú, quận Mai Lĩnh, gọi là chi nhánh Mai Lĩnh của trường Triệu Phong (10).

Chỉ có trường trung học Cam Lộ di cư theo dân Cam Lộ và Gio Linh vào khu khẩn hoang lập ấp Động Đền (tỉnh Bình Tuy cũ); vô đây, trường Cam Lộ có từ lớp 6 đến lớp 9.

Còn các trung học ngoài công lập thì trên đất Quảng Trị, giữa năm 1973, trường Hiền Lương nghĩa thục về mở đầu tiên trên vùng cát địa phận xã Hải Trường, huyện Hải Lăng (11).

Tiếp theo, trường Bồ Đề Quảng Trị về tái định cư thành 2 chi nhánh: chi nhánh 1 ở vùng cát Hải Lăng, chi nhánh 2 ở Mỹ Chánh (gọi là Bồ Đề Chánh Môn), dạy từ lớp 6 đến lớp 12(12).

Ở khu khẩn hoang lập ấp Động Đền (tỉnh Bình Tuy cũ) có trường trung học Thanh Linh của Thiên Chúa Giáo di cư vào. Trường này nguyên ở khu dồn dân Quán Ngang Gio Linh các năm học 1969 – 1970, 1970 – 1971, 1971 – 1972, ở trại tạm cư Hoà Khánh các năm học 1972 – 1973, 1973 – 1974 và nay ở Động Đền năm học 1974 – 1975; ở Quán Ngang, trường chỉ mở từ lớp 6 đến lớp 9; còn ở Hoà Khánh và Động Đền, trường mở từ lớp 6 đến lớp 12.

Ở khu khẩn hoang lập ấp Láng Gòn (tỉnh Bình Tuy cũ), có trường Đắc Lộ của bên Thiên Chúa Giáo di cư vào, mở năm học 1974 – 1975; trường này ở thị trấn Đông Hà Quảng Trị từ 1962 đến 1972; từ năm học 1962 – 1963 đến năm 1967 – 1968, trường chỉ có từ lớp 6 đến lớp 9; từ năm học 1968 – 1969 trở đi, trường mở dần bậc II cấp và đến năm học 1970 – 1971 có đủ các lớp từ 6 đến 12. Trong thời gian tản cư, trường nghỉ hai năm học 1972 – 1973 và 1973 – 1974. Khi khai giảng lại ở Láng Gòn, trường có từ lớp 6 đến lớp 12.

Các trường hồi cư hay về tái định cư trên đất Quảng Trị, dù công lập hay tư thục, đều có cơ sở được xây dựng tương đối kiên cố.

Tội nghiệp! Trường công lập Cam Lộ di cư vào Động Đền trong năm học 1974 – 1975 chỉ có cơ sở dựng tạm bằng tre lá. Trường tư thục Thanh Linh ở Động Đền có cơ sở, dù tạm, vẫn chắc chắn: nhà gỗ, vách gỗ, lợp tôn, đố gỗ ngăn phòng học. Trường sở kiên cố đang chuẩn bị xây dựng, thì ôi thôi! Chiến tranh lại tái diễn vào tháng 03/1975.

Chỉ có trường tư thục Đắc Lộ ở Láng Gòn có cơ sở khang trang, kiên cố: một dãy nhà đúc.

Nhìn chung, giáo dục công lập ở Quảng Trị, trong đó có giáo dục trung học kể từ khi thành lập cho đến khi “tan hàng”, phát triển không bằng ở các tỉnh khác: các trường trung học công cấp quận đã ít lại, qua thập kỷ 1970, chưa có trường nào mở được bậc đệ II cấp hoàn chỉnh; từ cuối thập kỷ 1960, chưa có trường trung học công lập liên xã nào; trường sở  không được cấp kinh phí để xây dựng phòng ốc đàng hoàng khang trang; nói vậy để biết chính phủ Việt Nam Cộng Hoà không ưu đãi mấy cho giáo dục Quảng Trị. Có thể do tình trạng có thể bị bỏ rơi bất cứ lúc nào vì tỉnh sát vĩ tuyến 17.

Tháng 3 năm 1975, chiến tranh tái diễn, dân Quảng Trị rối như tơ vò: ở lại, chạy ra, chạy vô; các trường trung học cũng tan hàng dần cho đến những ngày cuối tháng tư (khi tỉnh Bình Tuy về tay quân giải phóng – 23/4/1975) thì không còn trường trung học gốc Quảng Trị nào tồn tại.

Con em Quảng Trị học trong chiến tranh, trường sở di dời nhiều lần, vậy mà sau khi thống nhất đất nước, rất nhiều người thành tài từ các ngôi trường ấy. Người Quảng Trị giỏi đáng nể!

Tác giả : Lão gàn Hoàng Đằng

31/3/2017 (04/3/Đinh Dậu)

THẢM HỌA DIỆT VONG NHÂN LOẠI TỪ NGUYÊN LÝ CỦA CÔNG THỨC EINSTEIN

SỨC MẠNH MỸ ĐẾN TỪ NGUỒN LỰC NHẬP CƯ VÀ NHẬP CƯ TẠO NÊN NƯỚC MỸ ... ngày 1/10/1940 bác học Albert Eistein được nhập tịch làm công dân Hoa Kỳ...