Sunday, August 31, 2025

HÀI KỊCH LA THOẠI TÂN -XUÂN PHÁT ([Phép Trị Vợ)




CỐ nghệ Sĩ Xuân Phát qua đời ngày 11 tháng 6 năm 2014 tại TP Santa Ana CAlifornia  thọ 82 tuổi




Cố tài tử La thoại Tân qua đời ngày 13/3/2008 tại Los Angeles , nam California thọ 72 tuổi






 

Saturday, August 30, 2025

AI ĂN TRỨNG LỘN ?! (tái đăng)


                     cái trứng lộn độ ngon nhất


lời dạo đầu


    KÝ ỨC về ăn hàng trứng lộn người viết có tái đăng vài lần. Thế mà lạ lắm, mỗi lần tác giả nhớ về thành phố cũ hơn năm mươi năm đi xa, lại nhớ cái chuyện "ăn hàng"? Âm thanh và hình ảnh món hàng về đêm, người kể chuyện khó lòng bỏ qua thúng trứng lộn mà mấy o hàng đêm vừa đi dọc theo con đường Lê V Duyệt vừa rao bán.

        -Ai...trứng lộn?

     Giờ đây, nơi thành phố QT tân thời, nhà cửa quán cà phê chi chít ken dày, nếu có bạn nào còn ở con đường có cái tên mới là Phan đình Phùng, ngày xưa còn gọi là Lê văn Duyệt. Đó là con đường chạy theo bờ hồ ngó qua là Cửa Hậu, Thành Cổ.     
  
    Có thể hôm nay cái hồ quanh thành cổ vẫn còn lấp lánh khi ánh trăng lên. Bạn đọc sẽ tưởng tượng ra hình ảnh o bán trứng Lộn nách cái thúng một bên hông, tay xách một cây đèn dầu lù mù đi dưới ánh trăng ...

Ảo huyền nhân ảnh, hình ảnh đó đã xa hơn nửa thế kỷ rồi, với trí tưởng tượng phong phú nào đó mong bạn thả hồn về với người Quảng Trị ngày xưa.

***

        Nói về chuyện ăn hàng vặt cái thuở xa xưa đó, chúng ta hay nhớ nhiều triêng hàng của mấy o bán vào ban ngày như bún xáo, bánh canh, bánh bèo, đậu hũ... về đêm, đặc biệt lại có chè gánh như người viết đã kể cùng bạn đọc. Trong các thứ hàng ban đêm đó, có một loại hàng mấy o Quảng Trị quê mình chỉ mang một bên nách thôi. Thứ hàng đó không nhiều đến nổi o phải gánh, đó là TRỨNG LỘN. Thật thế, tuy là cái thúng nách một bên hông, nhưng loại hàng đó không phải là thứ rẻ tiền

    Những năm sau này vào nam tôi mới có dịp nghe cái tên “hột vịt lôn” nói cho đúng âm thì là “hột zịch lộn”.  Người QT mình hồi đó cứ kêu là trứng lộn thế thôi vì không ai làm nghề bán trứng gà lộn cả. Thời này trong nam có cả cút lộn, gà lộn tùy theo nhu cầu thị trường. Ngày xưa rất khác. Món ăn truyền thống thì bà con mình hay giữ gìn, ít hề pha trộn cải biến lung tung.

    Nghề ấp trứng lộn tại quê mình ngày đó chỉ làm theo kiểu thủ công, gia đình. Làc đác đâu đó tôi mới thấy vài bầy vịt nuôi rong trên mấy cánh đồng giáp giới Trí Bưu về hướng gần cầu Ba Bến. Trong Diên sanh thì có mấy bầy ở đồng Cu Hoan hay gần cua Hà Lộc giáp giới Mỹ chánh. Đất ruộng QT hiếm hoi làm sao bì được trong nam nơi ruộng đồng cò bay thẳng cánh, bởi vậy vịt bầy ở QT hiếm là đúng.

vịt chạy đồng (vịt bầy) cắt lúa xong chủ ruộng cho vịt chạy đồng này ăn với một số tiền nào đó

    Nhưng bù lại, trứng lộn QT mình thật ngon. Có lẽ do làm thủ công, ít ỏi nên trứng lộn được chăm sóc kỹ lưỡng từng cái một, nên trứng  mới ngon như thế. Tôi lại suy rằng: bầy vịt QT ăn kham khổ hơn nên trứng và thịt nó mới đậm đà chăng? Một điều quan trọng nữa, nghề ấp trứng lộn họ giấu kỹ lắm, chỉ “cha truyền con nối” mà thôi! Ấp trứng lộn không có "bí quyết" thì chỉ ra trứng ung (hư) thôi, mà trứng ung hư rồi thì khách làm sao ăn?  (người hay có bệnh "đau đầu" nghe đâu tìm mua cho ra "trứng ung" mua ăn cho hết bệnh)

    Thôi, người viết xin trở về chuyện “Đồ Nghề” của o bán trứng lộn hơn là chuyện ấp trứng. Nói thì đồ nghề; nhưng có gì đâu?  Những thứ cần cho một đêm đi bán của o nhìn gọn gàng hơn o bán chè gánh nhiều. Trứng luộc xong, o bỏ hết vào trong một cái thúng có đựng trấu (hay trú tức là vỏ lúa xay xong.). Vỏ trấu có công dụng rất hay là giữ trứng được nóng lâu. Lại thêm một cái ‘trẹt’ (hay mẹt) nhỏ đậy vừa vặn chiếc thúng.  O chỉ đem theo cái chai muối tiêu, thêm vài ba cái dĩa đất nhỏ cùng một mớ rau răm được cuốn trong một miếng lá chuối.

     Màn đêm vừa buông xuống, từ mấy xóm trong thôn Hạnh Hoa hay Trí Bưu hay dọc theo đường Duy Tân Thạch Hãn, mấy o một bên nách thúng còn tay kia xách chiếc đèn dầu treo hướng về mấy con đường phố quanh Thành Cổ:

     -Ai… trớn (trứng) lộn !?


    Có khách, O ngồi xuống một bên đường.
            -Trớn mấy một cấy (cái)  ri.. O…?
            -Ba cấy mười đồng.

  Giá ba cái mười đồng cho đến hơn nửa đời, người kể chuyện vẫn còn nhớ. Chẳng ai mua ăn chỉ một cái duy nhất cả, dĩ nhiên phải mua sĩ 3 cái 10 đồng, o mới bỏ công và thì giờ ngồi xuống bên đường đợi chú khách đó ăn. Khách ăn trứng lộn, lại dĩ nhiên chỉ là đàn ông; đó là bác hay chú nào đó có tiền. Rồi bác hay chú đó cũng ngồi xuống bên lề đường để thưởng thức ba cái trứng nóng hổi. Tôi là đứa nhỏ đang chơi đá lon với bạn bè dưới cột điện đường. Trời phú cho cái trí nhớ về hình ảnh o bán trứng lộn cùng chú khách ăn hàng đêm đó và giờ đây mới có cơ hội "tỉ tê" kể lại với bạn đọc nghe chơi.  Chỉ nghe hay đọc "chơi" thôi nhé nhưng hi vọng sức cố gắng miêu tả để làm sao bạn đọc đi "chuyến tàu tưởng tượng" về ăn hàng đêm bên hồ  Thành Cổ một thời...

trứng lộn ngày xưa 1960: ba cái 10 đồng bạc thời TT Ngô Đình Diệm



...Cái trẹt nhỏ bây giờ trở thành cái mâm. O nhẹ nhàng đặt ba quả trứng xuống cái dĩa nhỏ, một dĩa kia o đặt môt nhúm rau răm và tiêu muối.
   Chú khách chưa vội ăn ngay. Một tay cầm cái trứng, tay kia chú vừa che che vừa nheo mắt soi cái trứng lên ngọn đèn điện đường...

        - Răng trớn ...tra (già) ri o !?
    

       -Trớn rứa mà eng chê tra tề...trứng nhà tui ấp mà eng, đúng ngày đúng tháng mới đem luộc bán eng nờ!

     O bán trứng giọng hơi bực mình với chú khách khó tính...mới "mở hàng" mà chú nói chi mô rứa? Nói rứa, nhưng o cũng chiều lòng khách. O cố săm soi, lựa sâu trong lớp trấu cho đến khi có được cái trứng nào vừa ý khách mới thôi.

    Sau khi húp hết nước của cái trứng, chú khách chỉ bóp một cái là cả cái trứng tuôn "tuốt tuồn tuột " vào miệng ,chỉ còn lại cái vỏ đã bẹp dí trên tay. Chú vừa nhai nhồm- nhoàm,  ghém thêm một nhúm rau răm, cùng một tí muối tiêu vào miệng, thế là xong! Tôi là một thằng bé đứng gần đó, thán phục tài ăn của ông khách lắm. Có lần mạ cho tiền, tôi mua trứng o vừa đi bán nhưng phải ăn vài lần mới hết cái trứng lộn nóng hổi. Đứa bé kia nhớ mãi, có khi gặp nạn do tôi cố "bắt chước" cách ăn của khách người lớn là ...bóp một lần... rủi thay! miệng tôi thì nhỏ, trứng bên trong còn nóng, nhổ ra thì tiếc của, báo hại thân tôi nước mắt ràn rụa, do muốn PHỎNG CẢ MIỆNG?! 

      Cũng có lúc, khách mua trứng mang về nhà. BA hay SÁU cái trứng o ưu tiên bỏ vào cái túi nylon. Lúc này o kèm muối tiêu gói sẵn trong mấy gói giấy nhỏ xíu, còn nhúm rau răm thì được vìn (cuốn) trong một miếng lá chuối. Thế thôi đơn giản lắm. Công bằng mà nói, trong mấy thứ hàng ban đêm, thúng trứng lộn của o xem thế mà thuộc loại đắt tiền khi so với đời sống của người dân bình thường hay so với giá trị đồng bạc cùng thời.

tờ bạc 2 $ VNCH 


 trứng lộn trong nam ăn kèm lỉnh kỉnh đủ thứ  rau chua ớt tỏi 


    Những năm di cư vô nam rồi, người viết mới thấy cách ăn trứng lộn trong nam khác hẳn tại quê mình. Có dịp ăn trứng lộn tại Phan Thiết hay Sài Gòn về đêm, tôi thấy khách ăn trứng họ đặt lên cái tách nhỏ cho khỏi nóng tay. Xong, họ lại dùng cái muỗng nhỏ từ từ múc trứng ra ăn. Đó là chưa kể vài thứ lỉnh kỉnh kèm theo... nào rau nào đồ chua nào ớt tỏi. Khách ăn trong nam hay có thêm xị rượu hay bia bán kèm nữa chứ. Trong nam, chẳng có khi nào tôi thấy trứng lộn người ta đi bán trong cái thúng nách một bên hông giống Quảng Trị ngày đó cả. 
    Đồng ruộng hiếm hoi như đã nói đoạn trên thì cái trứng vịt QT ngày đó cũng có cái giá trị của nó huống gì trứng lộn? Dù mang tiếng là ‘thằng nhỏ ăn hàng’ nhưng trong lòng người viết sau này lại cảm thấy vui vui khi có dịp kể lể chuyện trò so sánh trứng quê mình quê người...

    Bao tiếng rao hàng khi màn đêm buông xuống nơi vùng ngoại ô tỉnh Quảng. Những cái nghề sinh nhai giúp cho đời sống của người lao động trong thời bom nổ đạn reo. Giờ đây chúng ta ngồi nhớ về quê hương rồi kể lại cho nhau nghe qua vài món hàng ăn dân dã. Một ngày, nếu có ai về đường xưa lối cũ, khi ngồi trong tiệm ăn hay quán cà phê nào đó, chợt chạnh lòng nhớ lại một chút hình ảnh cùng tiếng rao xa xưa, một thuở ăn hàng ./.


ĐHL 

edit 31/8/2025

 

Friday, August 29, 2025

MÙA XUÂN TRÊN ĐỈNH QUÊ HƯƠNG (1975)





Căn Cứ ĐỘNG ÔNG DO 275 mét phía trước là Động Tiên 295 mét (kỷ niệm ngày đóng quân cuối cùng của tác giả 17/3/1975)

    Tôi trở lại vùng hành quân vùng xa xôi đá sỏi biết buồn
Ba tháng hậu phương yên bình tuy vết thương chưa lành hẳn...

(Mùa Xuân Lá Khô/ Trần thiện Thanh)



    Mấy tháng cuối thu 1974 cả tiểu đoàn đau "rạt gáo"  do một chứng sốt tràn lan một cách lạ kỳ trên vùng Động Ô Đô. Lính bị bệnh cáng về hậu cứ càng lúc càng nhiều. Từ đó quân số Tiểu Đoàn 105 thiếu hụt trầm trọng. Trung đội tôi chỉ còn khoảng hơn hai mươi người. Tính theo đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội đôi khi còn ba, bốn người thôi. Thiếu quân như thế, làm sao gác giặc? Hằng đêm chúng tôi phải thay phiên gác tới hai ca. Ca một từ 6 tới 8 giờ tối thì ca hai từ 4 tới 6 giờ sáng...  Sốt rét và thiếu ngủ và thiếu cả cái ăn làm lính càng yếu sức thêm. Tôi tuy là trung đội trưởng nhưng chỉ khỏi gác khi quân số đầy đủ. Tình hình sốt lan tràn toàn vùng Ông Đô, nơi nào cũng thiếu lính không riêng gì trung đội tôi.

Trước khi kể lại chuyện xưa, chuyện một "Mùa Xuân Lá Khô" một đề bài do người viết cảm hứng từ bản nhạc của NS Trần thiện Thanh, tôi cũng đính chính một chút về cái tên "Động Ông Đô" thật ra ngày trước người Quảng Trị mình gọi là "Độn Ôn Do" mà tiếng "Do" người Mỹ đọc trên bản đồ là "Đô" và sau này các đơn vị QLVNCH thì theo vậy mà gọi. Chỉ có một lần ngày xưa còn nhỏ tôi thường nghe người làng Nại Cửu như cậu Võ Thế Hòa (Dâu) thường bàn tán nhau "chèo đò lên Trấm lên độn Ôn Do" kiếm củi...




 Tác giả vốn đã ốm, vướng sốt nên càng lúc càng gầy rọc đi. Đêm đêm trong người mãi sốt ngầm, tóc rụng nhiều. Tôi vẫn bám chốt, vẫn gác 2 ca hàng đêm. Quân số càng lúc càng thưa do lính khai bệnh về hậu cứ. Phần tôi dù cố gắng chi rồi cũng 'chống gậy' theo xe tiếp tế tiểu đoàn về Bệnh Xá Tiểu Khu.

Nói ra thì nghe khá lạ lùng? sao lại "chống gậy" lúc mới 21 tuổi đời? Số là sốt quá, tôi mắt lúc nào cũng hoa lên, cảm giác sẵn sàng nôn ói?  Hơn hai tháng trời không có chất gì trong người. lại phải canh chốt, thức ngủ thì làm sao không chống gậy được?


Tiểu Khu QT đóng tại cồn cát Diên Sanh. Lúc này ông Trung tá Đỗ Kỳ làm Tiểu Khu Trưởng. Vào năm sau Ông Kỳ lên đại tá- là "dân" TQLC thì họ biết tin còn chúng tôi ở trên núi chẳng nghe tin này. Thật ra ông Đỗ Kỳ ít được người Quảng Trị biết nhiều. Đại Tá Đỗ Kỳ làm TK Trưởng do cả sư đoàn TQLC đóng tại QT là chuyện hợp lý.

Trở lại chuyện tôi, được về nằm bệnh xá Tiểu Khu nhưng để lại phía sau một trung đội thiếu quân số, thiếu mọi thứ...những anh em khác đau quá về trước tôi. Có gắng chi cũng đến phiên người trung đội trưởng, con vi trùng bệnh chẳng chừa một ai. Tôi là người bệnh chống gậy về sau cùng. Ngày đó quả thật người tôi trông ốm quá người quen chẳng nhận ra, gặp tôi ai cũng thảng thốt:

`    -Ui chao ơi ! mi đó Phúc?

 Người nhà của Trần Tài, người bạn cùng xóm Cửa Hậu, thôn Đệ Tứ, thành Phố Quảng trị trước đây bất ngờ gặp lại tôi, ai cũng động lòng thương cảm thốt lên như vậy. Bác Cai Trà, mạ Tài hay anh Tài, tất cả gia đình người bạn này đều ở vùng đất lúc đó được gọi là KHU THỊ TỨ, trước mặt Tiểu Khu. Cả một vùng đóng trên cồn cát Diên Sanh. Bà con cố cựu đều là dân THỊ XÃ năm xưa. Người cùng xóm cũ, quả thật ai cũng ái ngại, thương cho tôi hoàn cảnh xa gia đình cha mẹ. Nhà tôi tất cả đều di dân vào nam rồi.











Em Gái Hậu Phương & Tiểu Đoàn 105 TKQT tại Cầu Ba Bến 1969 (2 đại úy Lê kim Chung và Trần quang Hiền người giữa) Thời gian này tác giả chưa ra đơn vị 


 Lúc nằm bệnh ở đây tôi biết có Ông Đại Uý Quân Y Hoàng Trọng Mộng làm trưởng Bệnh Xá. Tôi biết ông bác sĩ Mộng do Ông là "người tình" của dì tôi. Khi hai người có đứa con gái tên Hoàng thị Mộng Hằng thì dì tôi và gia đình đã ra đi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp.  Đứa con gái dì tôi nay ở Trị An, sau này cũng liên lạc được với cha mình.  Ông Hoàng trọng Mộng sau 1975 được tái hành nghề bác sĩ tại Sài Gòn cho đến khoảng gần năm 2020 thì mất.  Ngày đó nằm bệnh xá, ông Mộng có xuống thăm thương bệnh binh. Thật tâm tôi chẳng muốn nói hay nhìn quen biết làm chi. Tôi về nằm bệnh ở đây là hợp lý chẳng cần "thân quen hay xin xỏ" ai nữa. Nhìn người tôi lúc đó- ốm tong teo, xanh xao do sốt rét, thiếu ăn, mất ngủ như rứa thì ai mà không cho nằm viện?

Nằm tại Bệnh Xá được năm mươi lăm ngày, tôi dần hồi khỏe người vui vẻ trở lại. Ngày ngày vào câu lạc bộ tiểu khu, vui quá nói chuyện huyên thiên đến nổi có bà ngoại mẹ người chủ rầy la "sao ồn quá". Hết bệnh tôi cầm tờ giấy phép vào tận Mỹ Tho thăm gia đình. 

Tôi có ghé Bình Tuy thăm bà con ở Động Đền. Động Đền là một cái tên của một vùng chứ không phải tên thôn hay tên xã nào cả. Động Đền là một vùng từ múi đầu của tỉnh lộ 55 chạy đến chân dốc xã Tân Sơn thuộc Quận Hàm Tân, Bình Tuy hồi đó.

 Người QT năm 1974 đã vào Bình Tuy hơn một nửa, chỉ một phần ba hồi cư về lại QT thôi. Tiểu Khu QT cũng chia đôi để đi theo Chương Trình Khẩn Hoang LẬP ẤP. 

Tôi ghé thăm vùng đất mới Động Đền vỏn vẹn hai ngày nhưng nhiều ấn tượng. Hình ảnh những cánh rừng mới bị chặt hạ ngổn ngang trên vùng đất cao xã Tân Sơn. Có mấy cái quán tranh bán cà phê nho nhỏ trước cái chợ có tên Động Đền. Những mái nhà tôn xi măng và tranh xen kẽ. Đi đâu cũng là người là người QT. Bà con gần nhau, đùm bọc nhau mà sống. Năm này chỉ có bà con ngoại tôi ở đây. Dì kế mẹ tôi có mở cái quán cà phê cũng lợp tranh tại chợ Động Đền. Cái quán ngó qua con đường tỉnh lộ 55 là quán tiết canh. Mệ bán tiết canh một thời nổi tiếng tiết canh ở chợ Sãi QT trước 1972. Nay mệ mở quán, bà con đặt cho cái tên là "Quán Mệ Tiết Canh". Năm 1974 người QT Khẩn Hoang Lập Ấp vào đây, than củi bán mua còn tấp nập. Cà phê bán cũng đắt khách do người dân còn trợ cấp, còn tiền làm than rồi đất đai mới khai hoang nông sản dồi dào. Trường học như tư thục Thanh Linh do Linh mục Nguyễn vân Nam làm hiệu trưởng. Bên cạnh đó trường học công do chương trình Khẩn Hoang Lập ấp BS Phan Quang Đán tài trợ mở mang từ Động Đền cho đến các xã trên cao như Sơn Mỹ đều được xây bằng xi măng lợp tôn vững chắc...

Gia đình ba mẹ tôi một năm sau tức là sau 1975 mới giã từ Mỹ Tho để về Động Đền. 

Hết phép mười lăm ngày, tôi ra lại miền trung  đúng vào dịp Noel 1974. Trước khi lên núi lại, tôi có hai ba ngày, lẩn quẩn về  thăm xã Hải Thọ thăm nhà mợ tôi. Cậu Võ Hoa tôi làm Phòng Ba/ TKQT và mợ tôi cũng là người Diên Sanh. Nhà mợ Lành gần ngã ba vào Chợ Diên Sanh. Vùng này một thời ai cũng biết người anh của mợ tôi. Anh ấy tên Xíu; người to con vạm vở, sức mạnh vô cùng. Sau này anh mất sớm.

 Ngày đó tôi dắt đứa em gái, con đầu của cậu mợ tôi- Võ thị Sớm Hồng- mới hai, ba tuổi đi vào Chợ Diên Sanh. Ai cũng ngỡ ngàng: 

-A Ôn Ch. Úy có con, mà răng còn trẻ dữ rứa?

 Ra trường vào cuối tháng 11 năm 1973, tôi đúng hai mươi tuổi đời, còn độc thân. Chuyện lập gia đình quả là xa vời, thật lòng tôi chưa bao giờ nghĩ đến.  Ngày đầu tiên trong đời binh nghiệp, từ Quân Trường Đống Đế tôi là người đầu tiên trong khóa  tình nguyện chọn về lại quê hương Quảng Trị. Cả khóa đứa nào cũng vỗ tay cho là 'anh hùng'? tôi đâu phải là anh hùng, do tôi chỉ muốn về lại quê hương mà thôi.

 Những ngày trình diện đơn vị mới là mùa Giáng Sinh 1973. Đúng một năm sau, mùa giáng sinh 1974, tôi đi phép bệnh và ra lại TKQT trả phép. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đi phép đơn vị. Một cái phép "bất đắc dĩ" do nằm bệnh non 2 tháng mà có.  Tôi vào nam xong ra lại Đà Nẵng thăm cậu tôi- Đại Úy Võ Bình, binh chủng Lôi Hổ đang đóng tại Sơn Trà. Quà cậu tôi cho là quả lựu đạn mini nhỏ xíu bằng trái cau, bỏ túi phòng thân. Tại sao tôi gọi là "quà" do thứ lựu đạn nhỏ xíu đó chỉ có "dân biệt kích nhảy toán" hay "bóng ma biên giới" mới có, binh chủng khác không bao giờ được cấp phát.

Khác với năm 1973, vào Giáng Sinh năm 1974 người QT tại Hòa Khánh và Non Nước đã hồi cư hay di dân vào nam hết. Các trại tạm cư tại Đà Nẵng không còn. Tôi giã từ Đà Nẵng, vội về lại Diên Sanh.

trường TH Nguyễn Hoàng và khu Thị tứ  1973


THỊ TỨ BUỒN HIU DIÊN SANH 1974

Tôi chưa vô gấp Tiểu Khu, lại lên Khu Thị Tứ Diên Sanh. Khu Thị Tứ lập ngay trước mặt Tiểu Khu QT. Tôi đi  thăm bà con lối xóm mới hồi cư, tức là đã giã ừ vùng tạm dung Đà Nẵng từ mùa hè 1972 cho đến cuối năm 1973. Nhà người bạn trong xóm Cửa Hậu năm xưa tức là nhà Trần Tài là nơi người kể chuyện phải tìm đến trước tiên. Tài là con út của ôn mệ Cai Trà, Phường Đệ Tứ QT cũ.  Tôi vào nhà Tài. Lúc này còn gặp mẹ Tài. Gạo hồi cư 6 tháng cũng vừa hết. Bà con sống nhờ vào đồng lương lính hay công chức quá eo hẹp không biết làm sao sống trên cồn cát trắng phau? Có thể bà con giờ này ai còn sống cũng có thể quên những ngày 'cơ khổ' lúc hồi cư? Gạo thiếu củi hết? những cồn cát bới tung hết rễ sim mốc làm chất đốt, nhưng rồi dần dà cũng cạn kiệt? Đời sống phải giảm thiểu từ ba bữa ăn trở thành hai bữa ăn tức là lúc 10 giờ sáng và 4 giờ chiều. Đó là chương trình hồi cư thì chỉ biết là hồi cư nhưng sống ra sao thì không ai tính trước cho người trở về Khu Thị Tứ Diên Sanh.

TKQT và khu Thị Tứ Hải Lăng 1973


Đó là những gì gọi là đời sống bà con cố cựu của tôi khi tôi về đơn vị. Vào hậu cứ Tiểu Đoàn 105 chờ xe tiếp tế lên núi để đi theo. Tôi không đợi quá lâu vì mỗi tháng đều có ba chuyến tiếp tế lên đơn vị.

            TRỞ VỀ ĐƠN VỊ


    Chiếc GMC của tiểu đoàn 105 ì ạch mò quanh co theo con đường sơn đạo lên hướng Ô Do phải mất gần nửa ngày. Tất cả mạch sống của mấy tiểu đoàn hướng núi đều nhờ vào sơn đạo này. Làm gì có máy bay vào lúc này hoạ chăng TQLC còn may ra. Lính Địa thì mong chờ vào hai bàn chân và mấy chiếc GMC của TK tuy cũ kỹ nhưng là người tiếp vận đắc lực cùng trung thành nhất.


              CĂN CỨ ĐÔNG Ô ĐÔ 



Men theo những triền tranh tôi về chốt trung đội. Anh em gặp nhau mừng vui hỉ hả như thể người thân vừa về lại  nhà. Tội nghiệp tôi chẳng có quà gì cho anh em ở lại. Đi bệnh viện về có gì đâu ngoài cái thân  ốm "còm nhom" đó thôi.

Trung đội phó tên Thản suýt xoa kể cho tôi nghe chuyện đêm kia khi nghe quả lựu đạn gài dưới chân đồi phát nổ ra sao? Tất cả Trung đội lên đạn sẵn sàng, tưởng sắp bị đánh?

 Đó là một đêm vắng mặt tôi, người trung đội trưởng. Sáng dậy một người bò xuống chốt. Té ra con mang bị vướng lựu đạn chết oan. Được mười mấy ký thịt- chất tươi đàng hoàng.  

"Tiếc quá không có mặt ch. uý liên hoan một trận cho đả"


Trung đội phó Thản vừa kể vừa phân trần. Phó Thản  vác sang đại đội trưởng Lê Kim Chung một cái đùi sau, còn chia cho 2 chốt tiểu đội kia...

-Vừa xong thì chuẩn uý lên...

Tôi không nhớ có cám ơn tấm lòng anh em trung đội hay không?  chỉ tiếc là chưa thưởng thức hương vị thịt mang ra sao? xưa tôi hay nghe "Mang lạc là mác làng" không biết lành hay dữ?

Nói đúng ra ở chốn núi rừng có nhiều đêm tôi hay nghe mang 'tác', nhưng sau đó chẳng có gì lạ cả. Động trời thì mang tác chẳng có điềm xấu gì cả.

***

Trời sắp đón xuân 1975 hay cái tết đầu tiên tôi đón xuân trên miệt núi. Có những đêm đứng gác trên đỉnh cạnh nguồn con Sông Nhùng , nhìn về hướng đồng bằng tôi thấy rõ những mảng ánh sáng đèn điện phía Khu Thị Tứ Diên Sanh mà nhớ bà con dưới đó. Đứng gác rồi nhớ Tết 1974, cái tết đầu tiên tôi ra đơn vị.  Thời gian đó, đơn vị tôi đang đóng ở cầu Ba Bến lúc tôi mới ra trình diện đơn vị- Tiểu Đoàn 105 đang đóng ở cầu Ba Bến. Về đại đội, người viết còn nhớ được đại Úy Lê Kim Chung cho giữ cái cầu Tham Triều. Nhớ làm sao những ngày mưa phùn rả rích, tôi ngồi bó gối trong cái hầm bên cống Tham Triều mà nhớ gia đình ba mẹ anh em đang ở tận trong nam.

Giờ thì Xuân 1975 về rồi. Ban ngày từ chóp núi, tôi ngắm về đồng bằng. Dưới tầm mắt tôi là cả một mãng mù sương. Ngày nào quang đãng, hướng mắt về Diên Sanh tôi thấy rõ những viền cát trắng. Những lúc trời thật trong tôi còn nhìn thấy mép đại dương xanh ngọc bích.

Ban ngày chúng tôi có thú vui là đánh bài xẹp. Bài xẹp gần giống bài tứ sắc. Đó là cái thú tiêu khiển cho đời lính đóng chốt ở đây. Radio nghe riết cũng hết pin mà hết pin thì khó lòng mua được ngoại trừ dùng lại những cục pin cũ của máy PRC 25 tức là máy truyền tin của trung đội. 

Tất cả đều thiếu thốn. Mười ngày mới có một chuyến xe tiếp tế phải tới đỉnh Ông Đô nhận hàng do xe không thể bò tới chốt của từng đại đội được. Từ chốt trung đội tôi có thể men theo đồi tranh đi tắt bằng con đường tự mở để tới chốt đại đội 'ký sổ'. 

Ký sổ có nghĩa là mua thiếu hàng tại chốt đại đội. Nào kẹo đậu phụng nào sữa ông thọ cộng với bột bích chi nào thuốc hút .. những thứ này không thể thiếu. 

Nước uống thì vác ống đạn bò xuống chân núi để lấy nước khe. Đoạn đường nguy hiểm và hồi hộp, nhưng không có nước thì xem như ngồi trên chóp núi mà chết khát thôi. 
Dù nguy  nan cũng phải chia phiên vác ống đạn mò xuống khe lấy nước. Bên chốt kia, có người đi xuống lấy nước bị mất tích luôn? Hạ Sĩ Hoát (hoác?) xuống khe Trai lấy nước, không về? Sau này khi ở tù tại Trại Ái Tử, chúng tôi đi chợ mua rau tại chợ Đông Hà, bạn tù cho hay hạ sĩ Hoát làm phu kéo xe tại chợ Đông Hà. Thì ra ngày đó ông Hoác bị phía bên kia bắt cóc chứ không phải cọp vồ mất xác.


Đủ thứ nghi ngại cho căn bệnh sốt tại miền núi Ông Đô vào thời gian này: co thể do thuốc khai quang, có thể do muỗi vì sao nguyên nhân nào không quan trọng. Chuyện đáng lo là quân số quá thiếu, tiếp vận quá nghèo? 

***

Chuyện đời lính là vậy, còn 'cái mạng' để ngày ngày ngắm cảnh trời trăng mây nước, kể ra cũng còn may lắm.


Một con sông nhỏ, một khám phá lý thú đối với riêng tôi khi dò trong bản đồ vùng tôi đóng quân. Nó mang tên là "SÔNG NHÙNG'. Ngày xưa tôi  quen gọi là "Nhồng'. Cầu Nhồng là cái tên tôi không quên. Thời lớp nhì lớp nhất tôi hay vào Diên Sanh, xe phải qua Cầu Nhồng. Hồi này con đường Quốc Lộ 1 vào Diên Sanh phải qua Hải Thượng tức là con đường cũ. Qua Cầu Nhồng rồi mới đến Cồn Dê trước khi đến Diên Sanh tức là Xã Hải Thọ. 

Huyền thoại về Cầu Nhồng, thời nhỏ tôi chưa quên: người ta kể rằng: thời Pháp qua Cầu Nhồng hay có ma có khi nó xui cho tài xế thấy cả "hai cầu Nhồng" trước mắt và lái tòm xuống sông? Đó là chuyện ma thời xưa khi còn Pháp hay tôi chưa ra đời.  Rồi ba năm 1963-65 khi ba tôi làm tại Chi CA Hải Lăng, người hay lái xe vào Cầu Nhồng.xong đi lên một đoạn ném lựu đạn bắt cá. Có hôm bắt được con cá tràu quá lớn. Con cá nằm sau xe,  khoanh lại to gần bằng cái bánh xe hơi ? 

Hôm nay, Cầu Nhồng có thể đã vào quên lãng khi QL 1 đổi hướng từ Ngã Ba Long Hưng qua Cầu Dài vào tuốt Mỹ Chánh không qua Diên Sanh nữa. Từ thời có con đường mới nối QT tới tận Mỹ Chánh, khi không Diên Sanh trở thành "Thị Trấn Đìu Hìu"!



hơn 40 năm sau Sông Nhùng sạt lở  khiến nhiều căn nhà của người dân nứt nẻ, có nguy cơ đổ sật bất cứ lúc nào (Baomoi.com 12/2017)

Tôi cảm thấy thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa, hợp với nhau trông chẳng khác chi một bức tranh thủy mạc. 

***

Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những lúc lặng ngắm non sông. Năm 1974, chính xác hơn là hè 1974 khi tiểu đoàn chúng tôi rời Ba Bến, chuyển quân về mạn biển hoán đổi Tiểu Đoàn 120. Mấy tháng đóng ở đây, khi lắng tai nghe sóng trùng dương dội vào bờ cát hoang vu cùng ngắm biển trời bao la, tôi cảm thấy tình cảm đối với quê hương dâng trào trong gió lộng. Tiếp nối, đơn vị lại hoán chuyển lên vùng núi. Tôi lại có dịp đứng trên đỉnh cao, trông xuống một dòng sông nhỏ đang lượn lờ uốn khúc. Chính lúc này, tôi mới nhận chân ra quê hương sao đẹp quá, hồn thiêng sông núi ngàn đời mãi xanh!

 Xuân 1975 sắp tới rồi, chỉ hai ba hôm nữa thôi. Một buổi trưa im vắng, tôi lại đứng trên đồi cao.  Quanh tôi toàn là những đám  rừng tranh bạt ngàn. Xuân đơn vị không một sắc hoa đó là điều chắc chắn. Màu xanh của lá màu áo ô liu thay hoa màu tết. Quà tết hậu phương, bánh chưng bánh ú từ Diên Sanh, hậu cứ Tiểu Khu đang được gửi lên.  

Đúng năm muơi mùa xuân qua rồi, nhưng lòng tôi vẫn nhớ mãi mùa xuân của MỘT CHÍN BẢY LĂM. Từ mùa xuân đó những người lính VNCH vĩnh viễn chẳng còn cơ hội nào đứng trên đỉnh cao để chiêm ngưỡng cảnh đẹp non sông núi rừng hùng vĩ. Mùa xuân biên giới hay "mùa xuân lá khô" thật sự trôi nhanh về miền dĩ vãng; nhưng ĐÓA HOA QUÊ HƯƠNG vẫn thắm mãi trong lòng người bao người con xa xứ. Cứ độ tết đến xuân về nơi chân trời góc bể, vẫn còn nhiều người lính già xa quê còn ngồi vọng NHỚ đến một thời cống hiến, bên chiến hào xưa rồi chợt dâng lên nỗi hoang lạnh tâm hồn ./.

edition by ĐHL 

đoản văn- LỐI VỀ ĐẤT MẸ

thân tặng những người Quảng Trị từng ra đi và đã thành công nơi xứ người (ĐHL)


    Người Quảng Trị tha hương không phải đợi đến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, lúc khói lửa chiến tranh điêu tàn phủ chụp lên quê hương bản quán khiến hàng vạn người phải ly hương thất sở. Đó là dấu ấn u buồn đau khổ khó ai quên. Có những thế hệ trưởng bối đã "khăn gói" lên đường xa rời Quảng Trị từ trước. Những lớp trai nuôi mộng tương lai, xây dựng sự nghiệp từng ra đi với bao hoài bão trong đời. 

    Những ngôi trường bề thế, những đại học tiếng tăm từ Cố Đô Huế cho đến Sài Thành hay những thành phố to lớn khác đều có những lớp thanh niên Quảng Trị ra đi từ độ đó. Có những lớp chọn đường binh nghiệp họ xa rời quê mẹ từ thuở thiếu thời, khi ra đi để lại đằng sau lớp sương mù kỷ niệm chập chùng một thuở xa xăm. 


Ngày qua giã từ đất mẹ mà đi
Vì nghe tình quê tình nước đôi bề
Nước chia hai đường nước chưa về
Trót thương cho người lỡ câu thề
Lên đường từ ly, hỏi rằng lòng lưu luyến gì...



    Hạnh phúc cho ai công thành danh toại, nhưng nay tuổi đã bát cửu thập hay đang bước vào lớp người "bách niên giai lão". Lớp người ra đi ngày xưa đó có thể đã tản mạn khắp nơi từ Sài Thành hoa lệ cho đến nam kỳ lục tỉnh và còn ra tận hải ngoại. Một phương nam xa vời hay tận chân trời góc bể, cho đến một ngày người tha hương ngồi nhớ quê xưa...



    Ngày xưa ra đi tìm công danh mẹ tần ngần tiễn con ra tận cuối con đường làng. Lối quê mờ nhạt, người đi còn ngoái lại như muốn lưu giữ hình ảnh mẹ già. Con đường sự nghiệp nơi phương xa như chờ đón thôi thúc bước chân chàng trai háo hức tiến về phía trước. Rồi bao nhiêu nghiệt ngã cam go, từng bước đường đời mò mẫm hay từng chặng đường thăng tiến công danh...đều là lớp lụa là nhung gấm trải bậc cho những người con ra đi tìm sự nghiệp. 

    Thời gian qua nhanh quá, cho đến khi giật mình nhìn lại đời mình đã là tóc bạc lưng còng. Ngọn gió chiều hiu hắt, lòng người chợt thấy lạnh buốt tâm hồn nhớ lại cố hương thì nay đã thăm thẳm xa vời. Bao người thân yêu nay đã nằm trong quá khứ mịt mù xa. Nhớ ngày đi, mẹ tiễn đưa con với nắm cơm thơm mẹ nấu. Đôi tay run run sờ nắn bờ vai đứa con yêu. Bầy em nhỏ mắt rưng rưng ngấn lệ, nhìn theo anh lên đường cho đến khi bóng người anh thân yêu khuất dạng trước lũy tre làng...



ngựa Hồ hí gió Bắc, chim Việt đậu cành nam

Chiều nay, lối về đất mẹ là đây
Đường xưa còn ấp ủ bóng trăng gầy
Có nghe đêm trường tiếng rú hời
có nghe đêm trường tiếng ai cười
suối lệ đoàn viên giữa lòng đất mẹ triền miên


    Ngọn gió thu phong làm lòng người thấy lạnh. Có những tâm hồn trở nên hiu quạnh trong bao năm tháng xa quê. Ai ngồi tưởng nhớ đến bóng người xưa nơi quê cũ xa vời? Đường xa cố lý nay đà hư ảnh do tất cả chắc đã không còn. Có về, dù chỉ một lần thì đường xưa lối cũ và bóng mẹ nay cũng trôi xa về miền dĩ vãng./.


ĐHL


 






Wednesday, August 27, 2025

John E. Steinbeck- CÚC HOA (truyện ngắn)



nguyên tác:
 The Chrysanthemums 
by John E. Steinbeck 

 Đinh hoa Lư  dịch

                                      ***

Sơ lược tiểu sử của Văn Hào John E. Steinbeck

nhà văn John Steinbeck

Lời dẫn:
John Ernst Steinbeck, Jr. là nhà văn Mỹ. Ông sinh năm 1902 và mất năm 1968. Ông nổi tiếng trong văn giới Hoa Kỳ sau khi đoạt giải Pulitzer văn học với tác phẩm Chùm Nho Phẫn Nộ(The Grapes of Wrath, 1939) và qua Hướng Đông vườn Địa Đàng, (East of Eden 1952), Của Chuột và Người (Of Mice and Man, 1937).
Ông là tác giả của 27 tác phẩm bao gồm 16 tiểu thuyết, 6 tự truyện, 5 tác phẩm tổng hợp thuộc nhiều truyên ngắn. 
John Steinbeck thắng giải Nobel văn học vào năm 1962.
Nhà văn Steinbeck bắt đầu viết trước thời Khủng Hoảng Kinh Tế thập niên 1930s của Hoa kỳ. Như trong Chùm Nho Phẫn Nộ, ông miêu tả sự di cư ào ạt của nông dân Mỹ cùng cuộc sống khó khăn từ miền trung tây Hoa Kỳ nơi chịu khủng hoảng nông nghiệp tiếp theo lại đại họa DUST BOWL – những đám bụi khổng lồ che kín các tiểu bang Texas , Oklahoma lan tới cả bờ biển phía đông Mỹ quốc. Hàng loạt nông dân thất nghiệp phải bỏ quê hương đi kiếm sống tại California. Trong tác phẩm đó, ông nói lên một thực trạng bất công trong xã hội Tư Bản giữa giới chủ Nông Nghiệp và tầng lớp đông đảo làm thuê. Từ ngòi bút bộc trực và không kém sắc bén của ông nên có lúc ông bị giới tư bản 'ghép' cho ông là Cộng Sản. Thật sự, với khả năng miêu tả phong phú, Steinbeck chỉ có nhiệm vụ "lột trần" những sự thật mà thôi.
Trở lại truyện ngắn The Chrysanthemums tạm dịch là Cúc Hoa, Nhà văn John Steinbeck một lần nữ,  muốn nói về cuộc sống khó khăn của người dân Mỹ trong cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế. Công ăn việc làm quá hiếm hoi, người ta kiếm ra đồng bạc độ nhật qua ngày không phải là chuyện dễ dàng?
Gã thợ dạo chuyên đi rong đó đây làm nghề mài dao kéo phải uốn cong “ba tấc lưỡi” đánh trúng vào tâm lý yêu hoa của nhân vật nữ Elisa, người chủ vườn cúc. Gã  giả vờ ca tụng hoa cúc, sở thích của nàng  hầu mong nàng sửa cho một ít đồ. Mục đích của gã chỉ vì tiền, thế thôi. Trái lại, nàng Elisa thì đớn đau chua xót trong lòng do sau này biết được lòng yêu mến nghề nghiệp cùng nghệ thuật của nàng đã bị lợi dụng và chà đạp phũ phàng. 
Sự đối trọng giữa nhu cầu hàng ngàyâ= để sống cùng sự cao đẹp của nghệ thuật và đam mê đó cũng là sự đấu tranh giữa thực dụng đời thường cùng lý tưởng xa xôi đầy ảo vọng.
Nhà văn không phải nhấn mạnh vào điều trên mà muốn nói lên một thực trạng tiêu điều của đời sống người dân Mỹ trong thời đại Đại Khủng Hoảng kinh tế  trong lịch sử Hoa Kỳ mà nguyên nhân chính là chính sách kinh tế Tư Bản đã xô đẩy con người đến những láo lường xảo trá hầu sinh tồn 
Trong cuốn Truyện Dài The Grapes of Wrath (Chùm Nho Phẫn Nộ) từng nói rõ hơn về lý tưởng của nhà văn John E. Steinbeck ra sao

                                        
                                                    ***





   







thung lũng Salinas (Monterey California)


    Vài đám sương mù mùa đông mờ xám lướt thướt bay trên cao như tách rời  thung lũng Salinas ra khỏi bầu trời quảng khoát của thế giới bên ngoài. Sương mờ che kín dãy núi bao quanh thung lũng trông y cái nắp khổng lồ cho một cái nồi vĩ đại.

Trên các dãi đất bằng phẳng, người ta cày sâu vào làm tơi lên màu đất đen kim loại. Mấy nông trại nằm ở chân đồi cạnh con sông Salinas. Sắc vàng do những đám đất còn trơ gốc rạ đang tắm ánh nắng yếu ớt mùa đông. Thực ra chẳng có ánh nắng nào trong cái thung lũng này vào tháng Chạp. Bụi liễu khô rậm cạnh bờ sông rực rở hẳn lên từ đám lá nhọn hoắc, vàng đậm.

Đây là lúc của im lặng và đợi chờ. Làn không khí lành lạnh, êm đềm. Ngọn gió nhẹ nhàng từ hướng Tây Nam làm anh nông dân mơ màng về một trận mưa lớn sẽ tới; nhưng khi trời sương mù thì làm gì có chuyện mưa?

Bên kia sông dưới chân đồi, nông trại của nhà Henry Allen vẫn còn ít việc phải làm. Cỏ khô phải cắt cất vào kho cùng đất vườn cần cày xong để đợi trận mưa đầu mùa sắp đến. Đàn bò trên dốc giờ lông chúng thô ráp xù- xì.

Elisa Allen vừa làm  trong mảnh vườn hoa của nàng vừa ngó xuống phía dưới thì thấy Henry, chồng nàng đang nói chuyện với hai gả đàn ông. Hai người khách này ăn bận theo kiểu thương nhân. Cả ba đứng cạnh mái nhà chứa xe kéo.Hai người khách để một chân bên hông chiếc xe nhỏ hiệu Fordson, hút thuốc, bàn chuyện máy móc...
Elisa chỉ nhìn sơ qua rồi tiếp tục làm. Nàng độ tuổi ba mươi lăm, khuôn mặt đầy đặn thoáng mạnh bạo cùng đôi mắt trong như làn nước. Dáng nàng đóng khung trong bộ áo quần làm vườn thô kệch với cái nón đàn ông đen kéo thấp che cả mắt.Đôi giày làm vườn nặng chịch.  Bộ áo quần có vẽ hình gần như bị che phủ bởi cái cái tạp dề vải bông dầy có bốn túi lớn đựng nào kéo tỉa, nào xẻng, cào, hạt giống cùng dao. Nàng còn mang cả đôi bao tay da để bảo vệ hai tay.
Elisa dùng cái kéo ngắn mạnh cắt bớt mấy cuống cúc già. Thỉnh thoảng nàng trông qua mấy ông khách vừa tới trang trại. Mấy người đó còn đứng cạnh chiếc máy kéo. Mặt nàng giờ đẹp lạ lùng,đây đầy nét hăm hở, hồn nhiên. Khi làm với chiếc kéo cắt cây trông Elisa thừa hăng say và tràn đầy sức mạnh. Những cành cúc yếu đuối kia giờ thật nhỏ bé so với năng lực của nàng.

Dùng phần lưng của bao tay, nàng khẻ vuốt lại làn tóc đang rũ trước mắt làm vương một vết bẩn dưới cằm. Đàng sau là nhà nàng, màu trắng xây theo kiểu nông trang. Nó trông gọn gàng với những cây phong lữ màu đỏ xung quanh chiều cao chúng ngang tầm với mấy khung cửa sổ. Căn nhà coi bộ quét dọn kỹ. Mấy khung cửa sổ đánh bóng tinh tươm  cả cái bậc tam cấp trước nhà cũng có cái thảm chùi bùn hẳn hoi.

Elisa liếc mắt lại hướng cái chái và chiếc xe máy cày lần nữa. Hai người khách đã vào lại chiếc xe Ford. Nàng cởi bớt một chiếc bao tay, dùng đầu ngón tay lách mạnh mạnh vào đám cúc con mới nhú mầm xanh non quanh mấy cái rễ già. Nàng luồn lách ngón tay giữa đám lá non để biết chắc không còn loại sâu, côn trùng, rệp lá hay sên nào hại cúc. Elisa  phải giết hết  những thứ  này trước khi nó sinh sôi...





Chợt tiếng chồng vang lên sau lưng, anh im lìm tới gần Elisa không biết lúc nào? Hơi nghiêng người qua hàng kẽm gai bảo vệ vườn hoa hay chống lại bầy bò, lũ chó, gà:
-Lại trồng thứ đó nữa?
-Em lại thêm một vụ cúc nữa đây rồi, khá chứ em?
Elisa thẳng lưng dậy, nàng lại kéo bao tay ra:
-Vâng, vụ hoa năm này chắc hẳn là khá lắm.
Nàng cao giọng, sắc mặt đầy vẻ tự hào.
-Những thứ này là món quà cho em đấy.
Henry nhận xét.
-Năm nay em gầy được loại cúc vàng lớn đoá thật, anh đoán nó to đến mười phân lận. Anh ước sao em cũng tạo được trong vườn cây ăn trái nhà mình mấy trái táo to đến ngần ấy thì hay biết mấy.
Mắt nàng bỗng sắc sảo hơn:
– Làm được chứ anh. Đã nói, em giỏi về món này mà. Mẹ em cũng thế đó anh. Mẹ chỉ cắm cành xuống vườn là mọc ra cây trái ngay. Mẹ em thường nói phải bắt những bàn tay người làm vườn phải biết làm sao trồng cho được mà.
-Vậy thì, trồng hoa coi bộ chắc ăn.
– Henry, hai người nào nói chuyện với anh vậy?
-Bởi thế anh mới tới nói cho em biết đây. Mấy gã đó là người của Công Ty Thịt bò Miền Tây. Anh đã thuận bán bầy bò thịt ba mươi con rồi. Cũng suýt soát với giá anh muốn.
-Tốt thật.
Nàng buông nhẹ:
– Tốt thật cho anh đó.
– Và anh nghĩ rằng …
Henry tiếp tục:
– Anh mong trưa thứ Bảy này chúng mình sẽ về Salinas ăn tối tại tiệm. Ăn xong chúng mình sẽ đi xem phim coi như là ăn mừng chuyện này nhé.
-Tốt.
Nghĩ sao nàng lặp lại:
-Ồ vâng, vậy thì tốt quá!
Giọng Henry có vẻ đùa:
– Tối lại có một trận võ đài. Em có thích võ đài không nào?
-Ô, không.
Nàng như muốn nín thở:
-Em không thích võ đài đâu.
-Anh đùa thôi, Elisa. Chúng mình sẽ xem phim. Xem này, bây giờ là hai giờ, anh sẽ gọi thêm Scotty giúp lùa bầy bò trên đồi xuống. Sẽ mất hai giờ nữa. Chúng mình sẽ về phố khoảng năm giờ ăn tối ở khách sạn Cominos. Em thích chứ?
– Dĩ nhiên là em thích rồi, ăn một bữa xa nhà thú lắm.
-Tốt , thôi anh đi lấy hai con ngựa đã.
– Giờ em còn nhiều thời gian để bứng trồng một mớ cây này đã.

Nàng nghe tiếng chồng gọi Scotty cạnh kho rơm. Lát sau, có bóng hai người đàn ông cưỡi ngựa ngược lên triền đồi vàng chệch màu cỏ úa vàng vọt kia để lùa bò về.

                                                        ******
       Salinas Valley




Một cây cúc có một khoảng nhỏ đất pha cát vuông vắn. Elisa dùng cái xẻng nhỏ liên tục trộn đều đất, xong nàng ém quanh đễ giữ chặt từng gốc cúc. Nàng xới đều mười khoảnh đất song song với nhau để trồng những gốc cúc này. Nàng tiếp tục dùng kéo xén bớt lá và rể thừa và để từng cụm rác nhỏ bên cạnh.


Chợt có tiếng bánh xe “cót- két” nghe thật nặng nhọc từ con đường vẳng lại. Elisa khẻ nhìn lên.

một cảnh trong phim The Chrysanthemums 
Con đường quê xuyên qua mấy rừng liễu cùng bông gòn dày đặc tiếp giáp với con sông. Từ đằng xa có một cổ xe trông là lạ, gợi tính tò mò. Đó là một toa xe ngựa, loại toa chở hàng có lò xo nhún cho êm với một tấm bạt tròn cong cong che cao trông giống toa xe kéo thuở xưa. Con ngựa già và một con lừa hai màu trắng, xám, đang kéo toa xe. Ngồi trên toa xe này, gã đàn ông hàm râu lởm chởm. Trên đầu gã chỉ có vài miếng che sơ sài. Gã gắng điều khiển, kéo lê toán lữ hành chậm chạp tiến lên từng bước trên đường. Dưới toa xe, khuất sau phần trong mấy chiếc bánh xe đang chạy, có con chó lai ốm tong teo thong thả bước theo. Hàng chữ viết trên tấm bạt coi bộ vụng về, cẩu thả: 

 Nồi, chảo, dao , céo (sic), làm cỏ. SỬA HẾT MỌI THỨ

 Hai hàng chữ ở trên cùng chữ SỬA to tướng có vẻ tự tin ở dưới. Gã còn cẩu thả để những vết sơn đen chảy dài xuống chữ gã viết.


 Elisa ngồi xổm trên nền đất, lặng ngắm toa xe khập khểnh lăn bánh đi qua. Nhưng toa xe này không qua ngay. Nó đang rẽ vào con đường trước ngõ vào nhà nàng, mang theo tiếng cót- két chói tai từ mấy chiếc bánh xe ọp- ẹp kia. Con chó lai dưới gầm bánh giờ chui tọt ra ngoài, chạy ra hướng trước. Lập tức hai con chó chăn cừu trong nhà phóng vụt ra. Đuôi của ba con chó dựng đứng, hơi ngo ngoe, cẳng căng ra trong dáng điệu sẵn sàng nghênh chiến, hết sức thiện nghệ và cẩn trọng.



Toa xe xe thực sự dừng hẳn trước hàng rào của vườn Elisa. Giờ đây con chó mới này cảm thấy vô tích sự, đuôi cụp xuống, nó chun lại vào dưới gầm nằm đợi nhưng lông cổ vẫn còn dựng, hàm răng nó còn nhe ra ngoài.

Gã đàn ông trên xe nói vọng ra:

-Con chó này chiến đấu coi tệ thật phải không bà?

Elisa cười:

 -Tôi cũng thấy thế, nó đi theo ông bao lâu rồi?

Gã không bỏ qua cơ hội lúc nàng đang vui vẻ trả lời ngay:

-Cũng không phải tuần này qua tuần khác đâu thưa bà...

Vừa trả lời gã vừa men theo bánh xe trụt xuống. Hai con ngựa và lừa giờ đầu cụp xuống, trông chẳng khác gì những cánh hoa thiếu nước chút nào.Gã là một người đàn ông to lớn. Tóc râu tuy xám ngắt nhưng trông gã không già lắm. Bộ đồ đen nhăn tụm, lốm đốm vết dầu mỡ. Cùng lúc tiếng cười của gã ngưng, nụ cười cùng ánh mắt gã biến mất theo ngay. Đôi mắt tối thẩm, ủ ê, thần sắc của những kẻ rong ruổi lâu ngày trên xe hay đi biển lâu ngày. Đôi tay chai sạm của gã tựa lên hàng kẽm gai trông nứt nẻ, những vết nứt đen bầm.

 Gã giở chiếc mũ méo mó xuống:

-Thưa bà tôi từ ngoài lộ chính vào...có phải con đường đất này sẽ băng qua sông và dẫn tới xa lộ Los Angeles không hả bà?

Elisa giờ mới đứng dậy, vội bỏ cái kéo dày vào túi trước:

-Ồ vâng, con đường này sẽ tới đó, nhưng phải đi men theo con sông mới có chỗ cạn lội qua. Tôi không biết cỗ xe của ông có lội qua cát nổi không ?

Gã nhanh miệng đáp ngay, giọng cộc cằn:

-Tôi dám cá chắc, bà phải ngạc nhiên khi bầy súc sinh này sẽ lội qua được ngay.

-Thế thì khi nào xe ông sẽ tiếp tục đi lại?

Thoáng một giây gã cười:

- Vâng thưa bà khi nào chúng ‘đáng bắt đầu’ đi lại ạ .

-Vậy à.

 -Tôi nghĩ cách tốt nhất để tiết kiệm thì giờ ông nên ra lại đường Salinas và gặp được xa lộ chính theo hướng đó thì hay hơn.

Gã đưa ngón tay thô kệch vừa đè lên lưới thép ngăn gà vừa phân bua một cách nghề nghiệp:

- Tôi chưa vội lắm đâu thưa bà, hàng năm tôi vẫn đều đều đi từ Seatle về đến San Diego và trở lại. Cuộc đời tôi cứ mãi thế. Một chuyến đi mất hết sáu tháng. Tôi biết nhắm lúc thời tiết thuận lợi nhất bà ạ.

Elisa cởi bao tay, cái kéo làm vườn, cất lại vào túi trước cái tạp dề đang bận. Ngón tay nàng lần vào dưới vành cái mũ đàn ông sờ mấy lọn tóc dấu kín bên trong:

- Cuộc sống của ông nghe thú vị thật!

Dáng điệu gã giờ tự tin, gã nghiêng người qua hàng rào:

- Có lẽ bà đã đọc mấy chữ tôi viết bên xe rồi chứ bà. Tôi chuyên nghề đi sửa nồi dao kéo. Thế thì bà có cái gì cần sửa không thưa bà?

-Ồ không, không có, không có những thứ đó.

 Nàng vội trả lời ngay. Đôi mắt nàng chợt thoáng chụn lại nét bất nhẫn nào đó.

-Kéo cắt cây mau hư lắm bà ơi!

 Gã cố giải thích:

-Người ta càng cố làm kéo bén chừng nào thì càng làm cho kéo mau hư chừng đó, nhưng duy chỉ mình tôi có một dụng cụ đặc biệt, chuyên môn. Mọi ai khác dù có bảo chứng tôi cũng chắc là trò giả thôi bà ơi!

-Ồ không, kéo tôi tất cả còn bén lắm ông à.

-Vậy thì bà đem cái nồi cho tôi làm cho?

Giọng gã khẩn khoản van nài:

 - Cái nồi nào móp hay cái nào lủng. Tôi cam đoan sẽ làm cho nó mới ngay và bà khỏi cần mua mới. Nó tiết kiệm cho bà nhiều lắm đó.

-Không!

 Giọng Elisa nghe cụt lủn.

-Tôi đã bảo với ông tôi không có cái gì để sửa cả!

Mặt gã chợt buồn thiu, giọng nghe như rên rỉ:

-Hôm nay tôi chưa có món đồ nào để sửa cả bà ơi. Có lẽ tối nay tôi không kiếm ra bữa ăn tối rồi. Bà thấy đó, do tôi phải rẽ vào đường tắt này, chứ dọc theo xa lộ từ Seatle cho đến San Diego ai cũng để dành đồ chờ tôi sửa vì họ biết tôi sửa khéo và tiết kiệm được tiền cho họ nữa đó.

  -Xin lỗi.

 Elisa bỗng nổi cáu:

  -Tôi không có bất cứ cái gì cho ông sửa hết!

Mắt gã giờ đây đảo quanh soi mói trên mặt vườn. Ánh mắt dừng lại trên thửa cúc nơi nàng đang làm:

-Loại cây gì đó thưa bà?
cuc hoa
Vẻ khó chịu và bất nhẫn vội biến mất trên gương mặt Elisa:

  -À, chúng là cúc vàng, cúc trắng loại đại đóa đấy. Hàng năm tôi trồng những loại này và chưa ai quanh đây có hoa này lớn hơn tôi cả.

- Loại hoa cuống dài, chúng trông như những ngụm khói màu phải không thưa bà?

- Phải, phải ông tả nghe thật chính xác!

-Nó ngửi có vẻ khó chịu cho đến lúc nào chúng ta quen dùng nó nữa đấy.

Nàng chỉnh lại:

-Nó có mùi khá nồng, hoàn toàn không phải khó chịu như ông nói đâu.

Gã đổi giọng ngay:

- Tôi lại thích mùi ấy đó bà. 

Elisa khoe:

-Năm nay tôi trồng được loại cúc lớn đến mười phân đó ông.

Gã lại nghiêng ngưòi sâu thêm vào trong hàng rào:

-Này bà, dọc đường tôi vừa quen một bà.  Bà này có vườn hoa thật xinh chắc bà chưa hề thấy. Bà trồng đủ loại hoa nhưng không có loại cúc so được với cúc của bà tại đây. Tôi vừa vá cái đáy bồn tắm cho bà ta. Thật khó nhưng tôi làm được. Bà ấy có dặn tôi rằng, khi tôi đi qua nơi nào có cúc đẹp nhớ kiếm cho bà ấy một ít hạt giống. Bà ấy bảo tôi vậy đó thưa bà.

Đôi mắt Elisa giờ đây trở nên linh hoạt, háo hức:

 -Bà ấy dĩ nhiên không biết nhiều về cúc đâu. Ông có thể lấy hạt trồng ra nó, nhưng lấy mầm và trồng nó thì dễ hơn nhiều như ông thấy ở đây vậy.

-Ồ!  Gã kêu lên.

- Vậy thì tôi chắc không đem gì cho bà ấy được rồi.

-Sao lại không?  Elisa kêu lên.

-Tôi sẽ cho vào một ít cát ẩm, xong ông có thể mang chúng đi theo. Chúng sẽ ra rễ trong chậu, nếu ông tiếp tục giữ cho nó ẩm rồi bà ấy có thể bứng ra mà trồng thôi .

-Bà ấy chắc chắn sẽ có những chậu cúc đẹp lắm. Chính bà nói chúng là loại đẹp nhất phải không thưa bà?

-Đẹp. Nàng thốt lên.

-Ồ! phải đẹp chứ.

Đôi mắt Elisa chợt long lanh.

Nàng hất cái mủ rách sờn vội rủ làn tóc đen nhánh và thật đẹp ra ngoài:

- Tôi sẽ bứng nó đem vào chậu hoa, rồi ông có quyền đem theo, nào hãy vào đi.

Trong lúc gã lách mình qua hàng rào, Elisa hăm hở chạy vội theo hàng cây phong lữ lui hướng sau nhà. Khi trở ra, nàng mang ra một chậu đựng hoa màu đỏ. Nàng quên mang cả bao tay, quỳ trên nền đất, làm cho nền đất ẩm phẳng phiu. Elisa dùng ngón tay cùng cái xẻng nhỏ bứng đất vào chậu hoa mới tinh này. Xong xuôi nàng đặt vào đó mấy nhúm mầm cúc đang lên vào chậu. Đầu ngón tay nàng ấn mạnh chúng sâu hơn vào trong lớp cát ẩm kia xong, nàng dùng khủyu ngón tay ấn đều xung quanh.

Đợi khi gã đứng gần, nàng bảo:

-Những thứ tôi dặn ông, nhớ bảo bà ấy làm như vậy nhé.

   -Tôi cố nhớ lời bà dặn, thưa bà.

   -Tốt lắm, ông hãy nhìn xem. Những cái mầm này sẽ bén rễ trong vòng một tháng. Xong bà ấy sẽ bứng nó ra cách nhau chừng một bộ (foot) một cây vào thứ đất thật tốt như tôi làm ở đây, ông thấy không?

Vừa nói nàng bốc lên một nắm đất đen nhánh cho gã thấy.

- Những cây cúc này sẽ lớn nhanh và cao lắm. Giờ xin ông nhớ điều này. Dặn bà ta vào tháng bảy cắt chúng đi chừa lại cao khoảng tám phân (inch) thôi nhé.

  -Trước khi nó ra hoa phải không thưa bà?

  - Đúng, trước khi nó ra hoa.

Mặt nàng đầy vẻ thiết tha:

 -Chúng sẽ mọc thêm ngay. Khoảng cuối tháng Chín chúng bắt đầu ra búp non.

Chợt nàng ngưng nói và xem bộ hơi lúng túng:

-Khi cúc ra búp nó cần chăm sóc kỹ.

Ngập ngừng nàng tiếp:

 -Tôi không biết làm sao để nói thêm với ông.

Nàng nhìn sâu vào mắt gã như dò xét. Miệng nàng hơi hé xem chừng như muốn lắng nghe .

-Tôi sẽ gắng giải thích cho ông, có khi nào ông nghe nói ‘bàn tay trồng cây’ là gì chưa?

-Thật sự chưa bà ạ.

- Vậy thì, tôi bảo ông thứ cảm giác ông sẽ cảm nhận khi muốn ngắt bớt những búp nào mà ông không thích. Mọi chuyện ăn thua ở mấy đầu ngón tay ông. Ông sẽ nhìn ngón tay ông làm việc. Những đầu ngón tay này tự làm công việc của chúng. Ông sẽ cảm nhận chúng ra sao. Chúng ngắt và ngắt những búp hoa. Chúng chẳng bao giờ sai sót. Chúng dành cho cây cỏ, ông thấy đó không? Ngón tay ông và cây cỏ. Ông có thể cảm nhận rằng cánh tay ông. Chúng biết chúng không bao giờ làm sai. Ông có thể cảm nhận nó. Mỗi khi ông ưa thích rồi thì ông sẽ không làm trật. Ông có thấy đó không? Ông hiểu không vậy?

Nàng vừa quỳ trên nền đất vừa ngước mặt lên nhìn gã. Ngực nàng phập phồng đầy cảm kích.

Đôi mắt gã hẹp lại, tự giác quay đi:

-Có lẽ tôi biết, thưa bà, có đôi khi trong màn đêm trong toa xe ngoài kia...

Giọng của Elisa trở nên khản đục. Nàng ngắt lời gã:

- Tôi chưa bao giờ sống cuộc sống như ông, nhưng tôi biết ý ông muốn nói. Khi màn đêm xuống lại tối tăm..tại sao, những tia sáng nhọn hoắt của những vị sao lập lòe trong khoảng không im vắng kia. Tại sao, ông lại càng lúc càng lớn hơn thêm?Vì mọi ngôi sao lập lòe kia đã thẩm thấu vào trong ngừơi ông. Giống như thế. Nhiệt tình và tinh nhanh và cả...trìu mến nữa kia.

Tiếp tục quỳ trên nền đất , tay nàng với rộng hướng về phía chân gã đang đứng với cái quần đen dính đầy dầu mỡ. Những ngón tay ngập ngừng gần chạm vào thứ vải kia. Tay nàng chợt buông xuống nền đất. Nàng khom lưng thật thấp trông giống chú chó đang mừng chủ.

Gã vội nói:

-Như lời bà chỉ thật quý hóa quá! Làm bà quên luôn bữa tối đây rồi, không thể như thế này được.

Elisa vội đứng thẳng dậy, mặt nàng thoáng thẹn thùng. Nàng nhẹ nhàng đưa chậu hoa vào tay gã:

- Đây, xin ông đặt nó vào toa xe cạnh chỗ ngồi, nơi ông có thể canh chừng nó. Có thể tôi đi tìm cho ông thứ gì cho ông sửa đây.

Nàng tìm trong đống đồ cũ sau lưng nhà ra hai cái chảo nhôm méo mó xong mang lại cho gã:

-Đây, nhờ ông sửa cho.

Thái độ của gã giờ đây lại đổi khác. Gã trở lại tính cách nghề nghiệp của mình:

- Bà sẽ thấy nó mới toanh, vâng tôi sẽ làm ngay.

Cuối toa xe gã đặt một cái đe nhỏ. Trong cái hộp dụng cụ dính dầu mỡ có cái búa máy nhỏ. Elisa bước ra cổng xem gã làm.  Gã đang đập lại mấy vết lõm bên trong cái ấm nước. Miệng gã có vẻ tin chắc và thành thạo. Đến phần khó nhất, môi dưới gã bậm lại.

-Ông ngủ trong toa xe này hả?

-Ngay trong xe này, thưa bà. Mưa hay nắng tôi đều khổ sở như con bò đằng kia kìa.

-Thế thì thú quá, như thế thì quá thú đi, ước gì đàn bà cũng sống và làm như ông vậy.

-Đây không phải cuộc sống thích hợp cho đàn bà đâu.

Môi trên nàng hơi trề ra, làm lộ hàm răng:

- Sao ông biết? Sao ông lại nói thế?

-Tôi không biết bà ạ. Gã chống chế.

- Dĩ nhiên tôi không biết. Xong rồi , ấm mới của bà đây. Bà không cần đi mua ấm mới nữa nhé.
-Bao nhiêu đây ông?

- Ồ, bà cho năm mươi xu, tôi luôn lấy tiền hạ. Đó là nguyên do tại sao tôi luôn giữ được khách suốt từ trên xuống dưới dọc theo xa lộ ngoài kia đó bà.

Elisa mang trong nhà ra đồng năm mươi xu thả vào tay gã:

-Ông có thể ngạc nhiên đôi khi có những đối thủ. Như tôi có thể mài kéo nữa. Và tôi có thể dằn những vết lõm bên trong mấy cái ấm nhỏ. Tôi còn có thể bày cho ông những việc đàn bà nên làm.

Gã cất búa vào lại cái hộp đồ nghề dính dầu mỡ kia lại xô mạnh cái đe nhỏ cất đi:

-Đây là cuộc sống cô độc cho phụ nữ, thưa bà, nó còn nhiều sợ hãi nữa vì những con thú bò ở dưới sàn xe ban đêm đó.

Gã leo lên toa xe qua môt thân cây sát đó, giữ thân mình vào cái mông trắng của con lừa. Sắp đặt chổ ngồi xong nắm lại mấy sợi dây cương:

-Xin cám ơn lòng tốt của bà, thưa bà , tôi sẽ làm y như lời bà bảo; tôi sẽ đi trở lui gặp con đường Salinas.

-Hãy nhớ, nàng nói theo:

- Nếu ông đi lâu nhớ giữ cát cho ẩm nhé.

-Cát hả , thưa bà ?...Cát? Ồ, chắc chắn thôi. Bà bảo xung quanh mấy cây cúc chứ gì. Vâng tôi sẽ nhớ.

Giọng hắn như muốn phụ họa. Hai con vật ngoan ngoản tròng đầu vào hai cái ách đắt tiền của chúng. Con chó lai trở lại đi giữa hai bánh xe sau. Toa xe quay đầu lại từ từ bò ra đường cái, lui con đường nó vừa tới dọc theo con sông.

                                                      *****




SALAD BOWL của Salinas, quê huơng John E. Steinbeck

Elisa đứng trước hàng rào nhìn theo toa xe chậm chạp bò trên đường. Đôi vai nàng cố rướn lên, đầu nàng hơi ngã lui sau, đôi mắt nàng nheo lại cố thu hình ảnh đoàn lữ hành ra đi mờ dần. Môi nàng mấp máy.

-Tạm biệt, tạm biệt!

 Bất giác nàng thì thầm một mình:

- Hướng đó mới tươi sáng, mới tràn trề hi vọng.

 Nàng giật mình với tiếng thì thầm của mình, lắc đầu nhìn quanh xem ai có nghe nàng vừa nói một mình không? Họa chăng là chỉ mấy con chó nhà nàng. Đang nằm trên nền đất, mấy con chó hơi ngẩng đầu nhìn nàng xong, chúi mõm xuống tiếp tục ngủ. Elisa quay lại chạy vụt vào nhà.

Vào bếp, nàng lui đằng sau rờ thử cái thùng chứa nước nóng. Nước nóng bằng ánh nắng buổi trưa. Trong phòng tắm nàng lột phăng bộ áo quần đầy đất, vứt vào một góc. Dùng mảnh xốp, nàng kỳ cọ thật kỹ đôi chân, đùi, thắt lưng, lên ngực, hai cánh tay cho đến khi da nàng đỏ ửng. Giờ đây nàng đứng trước gương đợi khô cùng ngắm thân thể mình. Eo nàng nhỏ nhưng phần ngực nở nang. Xong quay ngang, nàng ngắm phần vai và lưng.

Sau cùng, nàng bận vào bộ áo quần đi chơi phố. Cử chỉ nàng chậm rãi, khoan thai. Trước tiên nàng dùng bộ đồ lót mới, đôi vớ dài xinh nhất cùng bộ đồ ưu tiên phù hợp với sắc đẹp của nàng. Nàng cẩn thận trau dồi mái tóc, viền hai lông mày và tô son đôi môi.

Gần xong trang điểm, nàng nghe chân bò rầm rập trở về chuồng, tiếng la hét của Henry cùng người theo phụ đang lùa bầy bò lông đỏ về, tiếng cửa chuồng đóng mạnh.  Tất cả âm thanh đó cho nàng biết rằng Henry đang về nhà.

Tiếng chân chồng nàng ngang trước hiên nhà và anh ta gọi:

- Elisa ơi, em đâu rồi?

-Em đang ở trong phòng, đang bận đồ đây, chưa xong đâu. Có nước nóng cho anh tắm ở trong, nhanh lên kẻo trể mất!

Nghe tiếng chồng tắm bên kia, Elisa vội đặt bộ đồ xám trên giừơng cho chồng, chiếc sơ mi, đôi vớ cùng cái ca -vát bên cạnh. Nàng không quên đặt đôi giày đánh bóng sẵn cạnh giường. Xong, nàng ra hiên, nghiêm trang và ngay ngắn ngồi đợi chồng.

Elisa nhìn về phía con đường men theo con sông, nơi rặng liễu vẫn một màu vàng cháy do lá chết lạnh. Dưới làn sương đậm, trông như dãi nắng dưới ánh mặt trời. Đó là sắc màu duy nhất trong buổi chiều xám ngắt. Nàng ngồi bất động, thật lâu mới thấy mắt nằng nhấp nháy.

Henry mở mạnh cửa, vừa tới gần vừa thắt ca vát khi mặt xong chiếc áo vét. Nét mặt Elisa thoáng nghiêm lại, dáng trầm tư. Henry lại gần chợt thốt lên khi ngắm nàng:

- Sao vậy, Elisa. Hôm nay trông em đẹp lắm!

-Đẹp? Anh nghĩ em đẹp hả? Anh nói "đẹp" có ý gì đây?

Henry vụng về:

-Anh không biết nữa? Anh muốn nói hôm nay em xem khác lắm, mạnh mẽ ,vui sướng hơn mọi khi.

-Em mạnh mẽ? Vâng, thì mạnh mẽ. Anh nói mạnh mẽ với ý gì vậy?

Anh ta càng lúng túng hơn:

 - Coi bộ em muốn thách đố anh rồi!

Giọng Henry nghe yếu xìu.

- Thôi cho anh đùa chút nghe. Trông em thật mạnh, đủ bẻ chân con bò; sướng vui như đang ăn một trái dưa hấu vậy đó.

Trong thoáng giây nàng mất vẻ cứng nhắc lúc đầu, nàng nói hết ý mình:

- Henry! Anh đừng nói thế. Anh không hiểu được lời chính miệng anh nói ra đâu.

-Em mạnh mẽ...

 kiêu hãnh nàng tiếp tục:

 -Thế mà từ lâu em chẳng biết mình mạnh đến thế.

Henry hướng về phía nhà che chiếc máy kéo.  Khi ánh mắt trở lại bên nàng, anh trở về thực tại:

-Đợi anh lấy chiếc xe kéo, em choàng áo vào,  anh đi nổ máy nhé.

Elisa bước vào nhà. Nàng nghe tiếng chồng lái chiếc máy kéo ra hướng cổng đợi nàng. Lận bận với chiếc mũ khá lâu, nàng làm chồng phải tắt máy cũng vừa lúc nàng vừa choàng được chiếc áo, vội bước ra.
                                               Salinas City 1930s

Chiếc xe kéo loại nhỏ chạy rập rình, lắc lư, trên con đường đất men theo con sông. Mấy đám chim bay toáng lên, mấy chú thỏ sợ hãi chạy biến vào mấy bụi dại bên đường. Hai con sếu nặng nề vổ cánh khỏi rặng liễu, buông mình xuống lại lòng sông.

 Xuất hiện xa xa trên con đường, nàng chợt thấy một đốm nhỏ?

Khi sắp vượt qua “cái đốm” mà nàng phát giác trước đây, nàng cố “lảng đi” nhưng đôi mắt nàng chẳng còn “tuân theo”. Buồn bả nàng thì thầm một mình:

- Hắn đã vứt nó mất rồi. Chẳng hề chi, chẳng quan trọng. Nhưng ít ra hắn ta còn giữ lại cái chậu.

 Nàng tự giải thích:

 -Hắn còn biết giữ lại cái chậu, đó là tại sao hắn không vứt nó xuống đường.

Chiếc xe kéo chợt vòng lại bắt nàng phải thấy toa xe của hắn xuất hiện lần nữa phía trước. Khi xe vượt qua, nàng cố xoay hết người qua chồng để khỏi nhìn lại cái đám người và vật hổ lốn kia.Trong thoáng giây mọi thứ đều qua. Nàng chẳng cần nhìn lại làm gì. Chợt Elias nói lớn, cố át tiếng máy xe:

- Hay! hay lắm! bữa tối hôm nay chắc hẳn phải là tuyệt vời.

-Rồi, em lại sao đây nữa rồi? Henry làu bàu.

Anh rời một tay lái, vổ nhẹ đầu gối nàng:

-Kiểu này anh phải năng dẫn em đi ăn tối mới được. Sự thay đổi này sẽ tốt cho hai đứa mình. Ở nhà chúng mình nặng nhọc quá mà.

-Henry?

-Chúng mình có thể uống rượu tối nay chứ?

-Chắc chắn thôi, không hề gì đâu.

Nàng Im lặng một lát, nàng tiếp:

-Henry nè, tại võ đài người ta đánh nhau tàn bạo lắm không anh?

-Đôi khi cũng có, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Sao em hỏi vậy nhỉ?

-Vậy à, em đọc mới hiểu rằng vì sao họ bị vỡ mũi, máu chảy ròng ròng xuống ngực. Em còn hiểu được vì sao mấy chiếc bao tay ở võ đài nặng hơn vì ướt sũng máu.

Anh chồng nhìn quanh người nàng:

-Chuyện gì thế, Elisa? Anh không hay em đã đọc thứ đó.

Mang xe tới chỗ đậu xong, hai người đi về hứơng phải, lên cầu Salinas.

-Đàn bà có hay đi xem võ đài không vậy anh?

-Ồ, có chứ, có một số đi xem. Mà chuyện gì vậy hả em, Elisa? Em muốn đi xem hả? Anh không nghĩ là em thích đâu, nhưng em muốn thì anh đưa đi?

Vào chỗ ngồi, nàng cố gắng làm dịu câu chuyện một cách yếu ớt:

- Ồ không, không, em chẳng muốn đi đâu. Chắc chắn là em không muốn.

Nàng như muốn tránh cái nhìn của chồng.

-Có rượu như thế là đủ lắm rồi. Nhiều lắm rồi anh ạ.

Elisa chợt kéo cổ áo khoác lên cao để chồng khỏi thấy nàng đang khóc; tiếng khóc yếu đuối như một bà già.

John Steinbeck 1938

HẾT

source: 

     (1977).GREAT AMERICAN SHORT STORIES. Reader Digest Association.

bản dịch của Đinh Hoa Lư
edit 11/12/2017 

SUY GẪM VÀI NGỤ NGÔN 1

  HAI KẺ BỘ HÀNH DƯỚI GỐC CÂY TIÊU HUYỀN Có hai kẻ Bộ Hành đang đi giữa trưa nắng gắt nên phải tìm một bóng mát nào đó trú thân. Nằm dưới bó...