Saturday, June 28, 2025

QUỐC GIA NÀO CÓ VŨ KHÍ HẠT NHÂN ? BÀI HỌC GÌ TỪ UKRAINE?

 



    Vào thuở ban đầu của thời đại Hạt Nhân,  Hoa Kỳ nuôi mộng thủ đắc một mình thứ vũ khí khốc liệt này, nhưng rủi thay nhiều bí mật và kỹ thuật chế tạo bom nguyên tử đã bị lộ bí mật khá nhanh. Tính từ lúc khởi nguyên vào tháng 7 năm 1945, Mỹ là quốc gia tiên phong thử nghiệm tạo nổ bom nguyên tử (Abomb) và sau đó một thời gian ngắn đã chính thức thả hai trái bom nguyên tử lên  Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản. Chỉ 4 năm sau, tức là năm 1949, Liên Xô đã thử nghiệm thành công vụ nổ nguyên tử đầu tiên. Tiếp đến năm 1952 là Vương quốc Anh, Pháp năm 1960, Trung Cộng tiếp theo tức là năm 1964.


    Trước tình trạng này Hoa Kỳ liền tức tốc tìm cách ngăn chận sự mở rộng quy mô loại vũ khí có sức tàn phá ghê hồn đó nên tìm cách nối kết thương thảo với các cường quốc có chung ý định. Do đó Hiệp Ước Không Phổ Biến Vũ Khí Hạt Nhân (NPT) được ký kết với Liên xô cùng nhiều nước khác vào năm 1968 tiếp theo sau khi Liên xô sụp đổ, hai nước Mỹ và Liên Bang Nga lại ký kết thêm Hiệp Ước Cấm thử Nghiệm Vũ Khí Hạt nhân (CTBT) vào năm 1996 cùng các nước khác.


    Ấn Độ, Do Thái và Pakistan (Tây Hồi) không bao giờ đặt bút ký vào các hiệp ước nói trên nhưng lại tự mình thủ đắc các kho vũ khí nguyên tử. Sadam Hussein của Iraq bí mật khởi công xây dựng chương trình vũ khí hạt nhân trước khi xảy ra Cuộc Chiến Vùng Vịnh 1991 vào thời TT Bush Cha. Bắc Hàn từng công bố rút chân ra Hiệp Ước Không PHổ biến Vũ Khí Hạt nhân NPT vào tháng giêng 2003 để sau đó thử nghiệm thành công vũ khí nguyên tử cùng các công cụ liên quan vào thời gian đó. Cho đến nay thế giới chi biết được (không chính xác) Bắc Hàn đang sở hữu 40 vũ khí nguyên tử. Iran và Libya luôn luôn bí mật theo đuổi các hoạt động hầu có vũ khí hạt nhân dù vi phạm thỏa ước. Syria cũng vậy họ bí mật hoạt động tương tự.


Chiến Dịch bất ngờ Búa Đêm của Mỹ bao gồm 7 B-2 xuất kích tấn công 3 căn cứ hạt nhân của Iran, Tổng cộng Hoa Kỳ đã thả 14 quả bom GBU- 57 (loại 30,000 pounds)


 Iran đã làm giàu tới 200 kg Uranium khiến Do thái và Mỹ phải mở 2 chiến dịch Sư Tử Trổi DậyBúa Đêm tấn công trực diện vào các trung tâm tinh chế Uranium. Cuộc chiến khiến Iran tuyên bố rút ra khỏi Công Ước LHQ là International Atomic Energy Agency (IAEA) và đuổi các thanh tra viên không cho thanh sát. 


 Rõ ràng cho đến nay các Hiệp Ước giới hạn vũ khí hạt nhân càng thất bại trầm trọng đưa đến một thực tế rất nguy nan cho an toàn nhân loại. Thực tế có hàng chục nước đang sở hữu trong tay các vũ khí ghê khiếp đó.

 

Cùng thời điểm Hiệp Ước NPT  ký kết, Hoa Kỳ và Liên xô (sau này là Nga) đã có hai kho vũ khí hạt nhân bao gồm hàng chục ngàn đầu đạn nguyên tử. Vào đầu thập niên 1970, các lãnh đạo  Hoa kỳ và Liên xô (sau này là Nga) cùng ký kết nhiều thỏa ước hay sáng kiến song phương cùng tìm cách giới hạn giảm thiểu mức độ to lớn của các kho vũ khí hạt nhân hai nước.


LỊCH SỬ CÁC PHI CƠ PHÓNG PHÁO CHIẾN LƯỢC CỦA HOA KỲ XƯA TỚI HIỆN ĐẠI 



America’s most advanced fighter jet is on its way to becoming the newest addition to the nuclear arsenal.

F 35 đang là loại phi cơ tiêm kích tối tân có khả năng mang vũ khí hạt nhân

Hiện Hoa kỳ đang đưa vào hoạt động 1419 đầu đạn hạt nhân chiến lược, tương ứng phía Nga có 1549 đầu đạn. Chúng được gắn vào hàng trăm phóng pháo cơ cùng hỏa tiễn, tất cả hệ thống phân phối đều được hiện đại hóa. Các điều khoản trong Thỏa Ước New START  cho phép đếm SỐ các đầu đạn hai phe và gia hạn mỗi 5 năm thời gian gia hạn cuối cùng là vào tháng Giêng 2021. Cuộc chiến Nga xâm lăng Ukraine khiến Nga đình chỉ hiệp ước đó vào ngày 21 tháng 2 năm 2023. Đáp trả, Hoa Kỳ đưa ra các biện pháp đối phó với Nga là giới hạn thông tin cho Nga biết. Tuy vậy, vừa qua hai cường quốc hạt nhân đã cam kết chấp hành các giới hạn cốt lõi nhất vào việc khai triển lực lượng chiến lược hai bên cho đến năm 2026.


BÀI HỌC ĐẮT GIÁ CỦA UKRAINE 


Trong Cuộc Chiến Vùng Vịnh  Iraq/Kuwait nổ ra vào năm 1990 do Saddam Hussein muốn sáp nhập Kuwait. Tổng thống George H.W. Bush hay Bush Cha đã ra lệnh cho quân đội Hoa Kỳ đánh ta quân Iraqđó đảm bảo vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trong thế giới hậu Xô Viết. 

Ngược lại, khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014, thì Mỹ và NATO không dám can thiệp  trực tiếp lại còn mất nhiều năm lượng lự trong vấn đề tranh luận liệu có nên viện trợ cho Ukraine vũ khí hay không. 

Ngược lại thời gian, từ lúc Liên Xô tan rã vào năm 1991, Ukraine có 130 hỏa tiễn liên lục địa (ICBM)46 hỏa tiễn liên lục địa khác cùng 1700 đầu đạn hạt nhân còn nguyên trên lãnh thổ. Năm 1994, Ukraine nghe lời Nga Anh Mỹ, chấp thuận chuyển giao toàn bộ vũ khí hạt nhân cho Nga để tham gia Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân, để đổi lấy khoản bồi thường kinh tế và sự đảm bảo từ Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh về việc tôn trọng nền độc lập và chủ quyền của Ukraine trong phạm vi biên giới hiện tại của nước. Nhưng bài học cay đắng nhất cho Ukraine là mất bán đảo Crimea và đất nước bị Putin xâm lăng tàn khốc từ năm 2022 đến nay? Từ kinh nghiệm Ukraine cho đến nay có ai tin vào sự bảo đảm các cường quốc cho nền độc lập của họ?


Phải chăng từ bài học Ukraine thế giới đang đứng trước một chọn lựa khắc nghiệt là nhu cầu thủ đắc vũ khí nguyên tử và toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập tự chủ của quốc gia ?



ĐHL dịch

nguồn 

https://www.armscontrol.org/factsheets/Nuclearweaponswhohaswhat

Thursday, June 26, 2025

ĐỜI LƯU DÂN VẪN MÃI NHỮNG MÁI TRANH NGHÈO


Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh

có sông sâu lờ lững vờn quanh
êm xuôi về Nam.
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau.
Bóng tre ru bên mấy hàng cau.
đồng quê mơ màng...

(NS: CHUNG QUÂN)


    Phận đời lưu dân của người Quảng Trị trải qua không biết mấy lần. Ra đi mang hai chữ lưu dân gắn liền với phận đời gian truân cực khổ trong chết chóc bom đạn. Người QT phải giã từ nơi "chôn nhau cắt rốn" đi về hướng nam tìm nơi chở che cho mạng sống dân nghèo. Sự đau xót cho bao người phải lìa xa quê hương lưu luyến cùng bao tình cảm mặn nồng đó là chẳng mấy ai hẹn được ngày về.
'


     Khói lửa, chết chóc phủ chụp lên số phận quê mình, từ thời ông bà đổ lại. Tất cả gom lại trong hai tiếng  "chạy giặc" mà thôi. Từ thời giặc Pháp đã lắm đoạn trường, đến lúc sau này chẳng kém đau thuơng. Bao thời sống dưới hai lằn đạn, Quảng trị khổ, đói đã đành nhưng trên bàn thờ mọi nhà không bao giờ thiếu bát nhang thờ người thân thuộc từng chết vì chiến tranh. Chuyện nhà cửa cháy- xây không biết mấy bận. Cho đến lúc chỉ có tranh lợp tạm nhưng chẳng chịu yên, lại thành tro bụi rồi lại dựng xây...
 







    Hình ảnh mái tranh nghèo dần dà là hình ảnh quen thuộc cho người dân quê mình, một quê hương "cày lên sỏi đá" cố sống qua ngày đoạn tháng. Mỗi mùa đông lạnh cắt da cắt thịt,"cắn ngón tay không còn chảy máu",  người  quê mình từng quay quắt, có lúc chẳng biết lấy chi bỏ đầy cái bao tử trống không. Đó là nỗi khổ của chiến tranh, đói lạnh.



LẠI CỨ MÃI RA ĐI

    Mùa Hè Đỏ Lửa, người Quảng Trị phải đành bỏ xứ mà đi. Người quê mình phải di dân vào tận xứ Bình Tuy, một thời người ta gọi là đất "Thầy Thím" do đây có đông dân tộc người Chăm, tiếng QT quen miệng gọi là "Chàm". 

    Người Chàm, tháp Chàm cũng do tiếng chỉ dân tộc Champa mà ra.
Xưa Công chúa Huyền Trân hi sinh thân ngọc để đổi hai châu Ô và Rý cho người QT hiện nay thì từ cái năm máu lửa 1972 con cháu người Qt lại tiến sâu hơn nữa. BÌnh Tuy những mật khu, những rừng gỗ quý ken dày , sức người làm không xuể , biển cả đầy ắp cá đang chờ sức người Qt vào khai hoang lập ấp:


"Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo" 







    1975 hòa bình rồi, thống nhất rồi ; thế mà người di dân QT vẫn không thoát khỏi cái "số cực". Rừng đốn hết, nào củi, nào than, tất cả cho cái bao tử. "Miệng ăn núi lở", thế là ba cái rẫy bạc màu lần hồi không còn lợi tức! Miệng ăn càng sinh sôi, nảy nở càng đông, rừng đốt làm than dần hồi cũng hết. Thế là vài năm sau 1975 lại tiếp tục di dân theo kiểu đi 'kinh tế mới' vào tận miền nam lục tỉnh-Bạc Liêu, Rạch Giá, Long Xuyên, Cần Thơ nhất là Bạc Liêu. Nhưng đâu có yên, bà con QT sống không quen kiểu "ướt át vùng sông nước"như dân lục tỉnh, nên cũng lại phải tứ tán lần nữa? Rõ ràng, số khổ nó vẫn theo bước chân "giang hồ' người dân xứ Quảng.



    Ai nói hai chữ "cu -ly" chỉ có trong lịch sử dân mình vào thời Pháp thuộc ? hết gạo, cạn cơm người QT tại tỉnh Bình Tuy (Hàm tân, Đức Linh) chen nhau tìm đến các nông trường cao su Long Khánh -Bà Rịa- Biên Hoà sau này còn gọi cái tên mới là tỉnh Đồng Nai. Họ bon chen thậm chí giành nhau 'nộp' cho được những tờ đơn khẩn thiết nhất, ai oán nhất để xin cho được vào làm 'cu li' tại các nông trường. Một thời của thập niên 1980 không biết bao nhiêu nông trường cao su mọc lên ở những vùng đất "bazan" màu mỡ tại Long Khánh, Biên Hòa...Đến bây giờ tầng lớp lao công người QT đó chắc đã quá thất thập bát thập và dĩ nhiên phần nhiều đã "xuôi tay" giã từ kiếp sống lưu dân khốn khổ ngày nào. Nhưng số phận công nhân nông trường ngày đó còn may mắn hơn số phận bà con lưu dân không vào được các nông trường đó do chỉ có vô được các nơi đó bà con mình còn sướng hơn hay an phận hơn ở ngoài.
Làm sao quên hình ảnh những ngày khi các liếp cao su mới trồng lên, còn non. Quả thật đó là ân huệ của trên ban xuống. Ngoài gạo tiêu chuẩn, người công nhân nông trường nhận đất còn thưa lại có cơ hội trồng dặm đậu,mè kể cả tỉa lúa khô để có thêm lợi tức. Một quá khứ, nhiều đồn điền cao su Long Khánh, vài nơi gần Long Thành hay Bà Rịa, ta đi đâu cũng nghe giọng nói Quảng Trị 'đặc sệt'. Người QT gần nhau vàn công nhau cắt lúa rẫy đất nông trường, hay nhổ đậu, thu hoạch mè...

 Ôi thương làm răng, Quảng trị đời "bọ mẹ" di dân, đẻ ra đời con, rồi đến đời cháu cùng ở một nhà. Mấy thập niên trôi qua, lớp mẹ cha ra đi biệt xứ, nay đến đời cháu con sinh ra lớn lên nơi xứ lạ quê người nhưng trở thành thân thuộc như quê cha đất tổ chẳng biết lúc nào.

Nhiều lắm,  người QT -tiếng QT- bao nhiêu khuôn mặt, màu da khắc khổ cho đến giọng nói nghe quen tai khó lòng lẫn lộn. Tiếng và người trải dài từ Bà Tô, Bình Giã, Ngãi Giao; từ các nông trường Hòa Bình, Cụ Bị, Xà Bang  cho đến giáp giới  Đức Linh Bình Thuận hay tiếp với Biên Hòa... 

Những mái tranh trong những vùng đất rẫy từ ngày Khai Hoang Lập Ấp vào xứ Bình Tuy, cũng như sau 1975 bao dãy nhà tranh xây dựng quy cũ, ngay hàng- thẳng lối trong các nông trường cao su, phần đông đều là những thế hệ di dân QT, già và trẻ ngày ngày nương nhau mà sống.

Chạy giặc, di dân lập ấp, rừng rú biển cả, tiếp đến là những liếp rừng cao su bạt ngàn xa ngót tầm mắt miền đất đỏ Long khánh trong nam để chan hòa máu và mồ hôi bao nhiêu thế hệ Quảng Trị quê mình. 


Kiếp 'cu ly' nông trường, đổi mồ hôi kiếm gạo tiêu chuẩn: nơi này đội trưởng nông trường quyền thế 'như vua'. Gạo cơm , phân bón , tiền bạc lương huớng , cắt công , khai công trong tay đội trưởng . Trên đội trưởng là trưởng nông trường . Tất cả đều có đời sống dư dật giàu sang, chỉ có người 'cu li' trực tiếp lao động là khổ. Nhưng cái thời này , gạo quý 'như vàng' người Qt dám đi đâu để mất tiêu chuẩn . Vài ba năm đầu , cao su chưa cao , 'cu li' nông trường còn có đôi chút an ủi nhờ trồng chen vào giữa những luống cao su nào đậu nào bắp , nhất là lúa 'vại' tức khác với lúa cấy chỉ mọc đất khô . Nông trường cũng chẳng gây khó khăn chi vì trồng chen ở giữa thì cao su khỏi bị cỏ hãm cũng hay . Một công hai việc cho người 'cu li' . Người Qt lại 'vàn công' nhau , thu hoạch mùa màng giữa những luống cao su. Thời này ngó vậy mà vui, vừa có gạo vừa có thêm tiền.


Khác với những kẻ ra đi, ra đi đây là ra đi đợt hai, đợt ba sau khi di dân vào nam rồi. Người ở lại Bình tuy, nhất là ở huyện Hàm Tân lại càng thiếu thốn hơn. Những đồi cát bạc màu sát biển, lúa bắp không còn lên nỗi. Những nương rẫy, trồng lên bới xuống nhiều lần, đến nỗi tranh cũng khó mọc lên cao.





Ôi! những buổi cắt tranh sao quá gian nan chán nản. Cái thuở được phát tồn lợp nhà và tiêu chuẩn gạo di dân LẬP ẤP 1973 -74 đã nằm trong quá khứ. Người bứt tranh đứng nhìn những đồi hoang hóa, tranh cao không quá đầu gối, chỏng cọng ngao ngán trong lòng. Tranh tốt thì người bứt không biết mệt. Tranh xấu vừa làm vừa chạy quanh. Bứt tranh là tiếng cũ, có thể gọi là cắt tranh hay cắt gianh theo tiếng Bắc. Tiếng gì thì tiếng, tranh dài ngọn là điều mừng rỡ nhất để về lợp mái tranh nghèo đang thời giột nát, hay lợp nhà mới nếu không có tiền mua. Nhưng tiền đâu, nếu hai bàn tay chỉ biết cầm cuốc, liềm, rựa?



nghề bứt tranh: một thời kiếm ra gạo tiền nhờ nó




Người bứt tranh (cắt tranh) giỏi, ngoài kiếm được cái nghề chuyên nghiệp làm tranh, đánh tranh bán độ nhật, còn có thêm biệt hiệu. Dân QT ngang đây thấy hơi giống dân nam: chú Hùng nghề bứt tranh xóm ba mạ tôi ở, thì gọi cái tên Hùng Tranh. Tội nghiệp giờ đây chú đã ra người thiên cổ. Nghề bứt tranh cũng chung số phận đó là NGHÈO; 'có đồng nào xào đồng đó' làm gì để dành được?


Thời thế đổi dời; thiên hạ 'đổi mới' trong khi xã hội toàn nhà xây,  nghề bứt tranh cũng đi vào 'lịch sử' thế là chú Hùng ngày ngày, thân bệnh hoạn, ngồi ngó ra con đường kiệt xem 'xe nổ' chạy đầy đường. Có thể Chú 
ngồi  nhớ lại những ngày bứt tranh khấm khá: "cái nào ngàn đó" có khi tranh 'hút' lên giá 1.200. Thím Hùng ngày đó 'le te' đi chợ Cam Bình mua đồ bổ, ngon cho chú 'bồi dưỡng', giờ còn đâu?

Hãy để cho Chú Hùng và hình ảnh những cái tranh, đánh dày, đánh mỏng, dài ngắn; hay những gánh tranh người nông phu lúp xúp gánh về tận chợ tỉnh LaGi vẫn đắt hàng, đi vào 'lịch sử' của di dân QT một thời.
 
Lớp cháu con đâu nghĩ ra hình ảnh những cái rẫy tranh khi bị cháy ra sao? Ai ác bỏ tàn thuốc, hay cố ý đốt. Những liếp tranh đã cắt , chờ khô gánh về lợp nhà nay ra tro bụi. Những mái nhà đang cần tranh lợp mới ra sao? Những nuộc lạt đang ngâm nước, chờ tranh hất lên mái nhà, đòn tay con thơm mùi gỗ rừng, giờ xem như bị đình lại vì tranh đã bị cháy sạch?


Rẫy rừng và những mái nhà tranh tưởng chừng là 'điệp khúc bất tận' cho kiếp người dân lưu xứ Quảng trị quê mình. Nếu mai sau ai có tấm lòng ghi lại thì quả là hình ảnh bi tráng cho một thời đi mãi với kiếp lưu dân.
 Thật khổ làm sao!

ĐHL tái đăng 

edition 27/6/2025 San Jose USA

Tuesday, June 24, 2025

TRUYỆN DỊCH CỦA ĐHL- TÂM SỰ ĐOÀN DI DÂN

 

 

 



                            ***


    Đoàn xe của người dân phiêu bạt từ bên mép đường bò lên mặt xa lộ lớn xuyên bang để tiếp tục cuộc di dân về miền Tây. Ban ngày họ hối hả vội vàng chẳng khác gì đàn bọ bay về  hướng đó. Khi bóng tối bao trùm họ tụm lại với nhau lại cũng giống một đàn bọ đang tập trung về ổ hay tập trung tìm nguồn nước. Lý do là họ quá cô đơn và rối loạn, do phải ra đi cùng với nỗi buồn, lo, thua cuộc;  họ ra đi  từ sức hấp dẫn của những huy hoàng nơi họ sắp tới. Từ đó họ vội vàng truyền miệng, sẻ chia nhau những gì trong đời sống, cho nhau từng miếng ăn để hi vọng tới cho được một miền đất mới xa xăm.


    Một gia đình vừa dựng lều tạm nghỉ gần một con suối lại có ngay một gia đình tới cắm trại gần đó ngõ hầu hợp tác, rồi sẽ có thêm một gia đình thứ ba nữa do hai gia đình kia đã tiên phong dựng trước nơi này do họ biết nơi dựng lều này rất tốt. Cho đến khi mặt trời xế bóng, nơi này có tới hai chục gia đình cùng xe cộ tập trung lại rồi.


    Chuyện lạ sẽ xảy ra vào chiều đó: hai mươi gia đình là một nhà, tất cả con trẻ đều trở thành con cái một nhà. Sự mất mát nơi ăn chốn ở nay là sự mất mát chung nhau, và cái giấc mơ “hoàng kim” của một miền tây trước mắt đang trở thành giấc mơ chung.


     Nếu một em bé trong đoàn bị bệnh sẽ gieo nỗi tuyệt vọng chung tới mọi con tim của cả hai chục gia đình đó, cả trăm con người. Nếu có đứa trẻ  sơ sinh nào đó chào đời dưới mái lều đó, cả trăm con người cùng lúc im lặng, nín thở, lo âu suốt đêm. Một niềm vui mừng hớn hở sẽ bùng phát cùng chung lúc trời vừa sáng. Gia đình vừa qua một đêm trong nỗi lo âu sợ hãi đó sẽ tìm lại những đền bù từ cháu bé mới ra đời. Tối đến, họ sẽ cùng nhau ngồi bên đống lửa. Hai mươi gia đình là một. Họ kết đoàn thành một khối qua từng buổi chiều và từng đêm như thế. Cái đàn ghi ta bó kỹ trong tấm mền, được lấy ra; được đàn, được hát- những bài hát quen thuộc mà mọi người từng hát nhiều đêm. Đàn ông hát lời, còn đàn bà thì ngâm nga ậm ừ theo điệu nhạc.


    Mỗi một đêm về người ta tạo thêm một thế giới khác với đồ đạc, bạn, thù đủ chuyện; một thế giới tạo lập thêm từ những đứa khoác lác, những tên hèn nhát, hay mấy người kẻ im lìm khiêm tốn, cùng mấy người hảo tâm tốt bụng. Mối liên hệ từng đêm như vậy lại tạo thêm một thế giới lạ lùng cho đến khi sáng dậy cái thế giới đó lại bị lại tan hoang đi chẳng khác gì đám xiệc.


    Lúc đầu cái thế giới của mọi gia đình đó  ai cũng  rụt rè, chậm chạp trong việc xây, dẹp lều trại, dần dà họ quen công việc đó và thạo việc. Họ bầu lên người cầm đầu rồi nảy sinh luật lệ, cùng quy tắc. Thế giới lập nên kia càng di chuyển về hướng tây càng tinh vi cùng hoàn thiện hơn do người xây ra nó càng lúc càng kinh qua trong quá trình kiến tạo từng ngày.


    Mọi thứ quyền đều được mọi nhà công nhận- quyền tư riêng trong lều; quyền giữ những gì  đen tối của quá khứ họ trong lòng; quyền được nói và quyền được nghe; quyền từ chối hay chấp nhận giúp đỡ, cũng như quyền ngỏ ý hay từ chối giúp đỡ; quyền tán tỉnh của con trai hay quyền được tán của con gái; quyền được ăn lúc đói  hay quyền của thai phụ cũng như kẻ ốm đau được ưu tiên vượt lên mọi quyền khác. Mọi gia đình này tuy không ai nói cho nhưng đều học được rằng, có nhiều thứ quyền quái dị phải bị dẹp bỏ: đó là quyền ồn ào khi toàn các lều đã ngủ, quyền dụ dỗ người ta để hãm hiếp, quyền ngoại tình hay ăn trộm cùng sát nhân. Tất cả thứ quyền quái dị đó phải bị nghiền nát do cái thế giới nhỏ bé đó không thể nào tồn tại qua một đêm thôi giá như cho các quyền như thế vẫn hiện hữu.




Rồi khi những thế giới như vậy dịch chuyển về hướng tây, dầu không ai nói với những gia đình đó,  những điều lệ đó sẽ hóa thành luật pháp.   Sẽ trái pháp luật nếu  ngu dại bén mảng gần các trại đó; cũng trái pháp luật nếu lỡ dại lân la vào nước uống dù bất cứ với lý do gì; cũng trái pháp luật nếu ta ăn đồ ăn ngon, bổ dưỡng gần kẻ đói khát trừ phi người ta xin bạn.


    Pháp luật đó còn đi kèm với trừng phạt—và chỉ có hai loại trừng phạt—một loại trừng phạt nhanh và một loại trừng phạt bằng đoạn đường phải chiến đấu gian khổ đến chết người hay có thể hiểu đó là lưu đày; mà lưu đày là sự trừng phạt ghê gớm nhất. Lúc này, nếu ai đó đã phạm luật thì xem như tên tuổi và khuôn mặt của họ sẽ theo họ suốt đời. Kẻ này sẽ không còn một chỗ dung thân trong bất cứ nơi nào, dù họ có xây dựng được gì bất cứ nơi đâu.


    Trong thế giới này, khi người ta quan niệm hạnh kiểm xã hội là những gì cố định và cứng nhắc, đó là lúc họ bắt con người phải nói “Chào buổi sáng” lúc cần thiết để khi ở lại gã ta sẽ có được đàn bà sẵn lòng với gã rồi nếu làm cha cùng bảo vệ những đứa con của nàng. Nhưng người đàn ông không thể mỗi đêm mỗi bà, nếu làm thế tất nhiên sẽ phá hoại thế giới này.


    Nhiều gia đình di cư về hướng tây, kỹ thuật kiến dựng thế giới này tiến bộ từng ngày để họ được an toàn trong thế giới của họ; thứ hình thức này phải cố định cho từng gia đình hành xử luật lệ từ đó biết được họ sẽ sống yên nhờ vào luật lệ này.


    Từng bước tiến bộ hơn thêm khi họ có chính phủ cho thế giới đó, có lãnh đạo gồm những lão niên. Người thông minh khám phá ra rằng từng trại đang cần thứ thông minh của gã; một đứa ngu không bao giờ thay đổi được gì trong thế giới này do từ cái ngu của hắn. Những đêm dài như thế sẽ phát triển thêm một dạng bảo hiểm. Người có thức ăn sẽ nuôi một người đói, làm như thế gã sẽ bảo đảm chống lạ sự đói khát. Có hài nhi nào qua đời sẽ có một xâu đồng tiền bạc đặt tại cánh cửa, do trẻ sơ sinh đáng được chôn cất tử tế, lý do cuộc đời em bé chưa có mảy may gì cả. Người già thì có thể chôn cất ở nơi dành cho kẻ bần cùng, xa lạ chứ không bao giờ dành cho trẻ sơ sinh được.


    Vật chất kiến tạo nên thế giới đó có nước và bờ sông, có dòng suối cả, có con khe con thậm chí có cả vòi nước không có người canh giữ. Còn có những khoảnh đất bằng phẳng cần để dựng lều, một ít củi để làm nên bếp lửa. Có một nơi đổ rác không xa quá, nơi đó lại cần có một ít dụng cụ--vài mặt lò cùng lá chắn lửa, vài cái lon vừa để nấu cũng như dùng để ăn. Cái thế giới đó xây xong trong buổi chiều. Khi người ta từ xa lộ đổ lại, lều trại dựng lên từ con tim và khối óc.


    Sáng đến lều trại đều hạ xuống, các tấm bạt dày đều cuốn lại, cọc lều cột chặt từng bó cột theo thành xe, giường ngủ đặt lại trong xe,  nồi song đặt lại đúng nơi. Những gia đình đó tiếp tục đi về hướng tây. Kỹ thuật xây dựng vừa chiều hôm trước, nay tiếp tục tháo ra khi ánh bình minh vừa hé; tất cả phải chính xác không xê dịch, để cho các mái lều cuốn lại vào đúng một nơi, song chảo đếm xong bỏ vào thùng. Rồi khi đám xe bò về hướng tây, mỗi thành viên của gia đình càng lớn thêm trong vai vế và nhiệm vụ thích hợp của mình;  để mỗi thành viên, dù già hoặc trẻ, có được một chỗ trong xe; rồi những buổi chiều nóng bức mệt mỏi khi đoàn xe vào được vị trí dựng trại rồi ai nấy đều biết bổn phận mà làm chẳng cần ai chỉ bảo. Trẻ con đi lượm củi, xách nước; đàn ông dựng lều và đặt giường; đàn bà lo nấu món tối và chăm coi khi gia đình đang ăn. Tất cả đều làm việc mình chẳng ai chỉ huy.


    Những gia đình, có nghĩa là từng đơn vị có một thứ ranh giới của một mái nhà vào ban đêm, một nông trại vào ban ngày, sẽ thay đổi ranh giới kia. Dưới ánh nắng nóng bức kéo dài, họ phải im lặng chịu đựng trong xe khi di chuyển chậm chạp về hướng tây; rồi đêm về họ sẽ kết hợp với bất cứ nhóm nào họ thấy.


    Điều đó đã thay đổi đời sống xã hội của họ---thay đổi toàn bộ thứ vũ trụ trong đó chỉ có đàn ông có thể thay đổi. Họ không còn là nông dân mà là di dân. Từ đó tư tưởng, kế hoạch, những cái nhìn chằm chặp trong câm nín từng thấy trong cánh đồng nay đã vượt ra ngoài xa lộ những khoảng xa diệu vợi để đi về miền Tây. Con người đó trí óc từng bị ràng buộc với chuyện của từng mẫu đất nay phải sống với từng dặm đường bê tông chật hẹp. Cùng từ đó những ý nghĩ cùng lo toan không còn là chuyện mưa, gió, bụi hay được mất của thu hoạch nữa. Mắt họ giờ chú ý vào bánh xe hơi, tai lắng nghe thật kỹ tiếng động của máy xe, trí óc phải tính toán với chuyện dầu, xăng, lớp lốp ngăn giữa không khí trong bánh xe và mặt đường ra sao?


    Rồi tấm bi kịch từ hộp số xe ập đến. Thức ăn trên lửa cả buổi chiều không có nước. Phải cần có sức để tiếp tục cuộc đi, rất cần tinh thần để tiếp nối cuộc hành trình. Ý muốn về hướng tây đang thôi thúc họ vượt bao nỗi sợ nắng hạn thiêu mình hay lũ quét dọc đường, tất cả đều không thể níu chân họ đang cố sức lê lết về hướng tây.


    Từng lần cắm trại đều y thế--rồi cứ một lần như thế cuộc hành trình sẽ dần thu ngắn lại. Có nhiều gia đình đã vượt qua hoảng loạn dọc đường, lái xe đêm, ngày. Họ dừng và ngủ trong xe, cùng nhắm về hướng Tây; từng khoảnh khắc như muốn bay cho nhanh trên đường. Lòng ước ao và ham muốn vĩ đại đó đã hằn sâu lên nhiều khuôn mặt dẫn đưa họ lái về hướng tây, ép cho được cụm máy đang kêu than rệu rã trên đường làm theo ý muốn của mình...


    Rồi mặt trời lặn, những gia đình đó lại tiếp tục có một đời sống mới về đêm—đó là thời gian tìm chỗ dừng chân tạm nghỉ. Vài mái lều đã dựng trước. Thấy một số lều dựng lên, chiếc xe vội  tạt qua mé lộ. Người ta ân cần lịch sự tiếp đón nhau. Người đàn ông, chủ gia đình ló đầu ra cửa xe:

-       -Chúng tôi có thể dừng tạm nghỉ ở đây chăng ông bạn?

-       -Sao không? Chắc chắn là được thôi, rất hân hạnh. Các bạn từ Tiểu Bang nào vậy?

-       Từ Arkansas đi một mạch tới đây đó bạn à.

-       Đằng kia kìa, cái lều thứ tư đó, họ từ Arkansas đó bạn.

-       Thật vậy sao?

Rồi một câu hỏi cần thiết khác:

-Còn nước có không?

-Ồ, tuy uống không ngon lắm nhưng khá nhiều đó bạn.

-Tốt quá, cám ơn ông bạn nhé.

- Không dám, đừng nói chuyện cám ơn làm chi.


    Người ta ân cần tử tế với nhau như thế. Chiếc xe chồm trên mặt đất hướng về phía cái lều cuối, dừng lại. Một số người mệt mỏi trèo ra khỏi xe, những tấm thân cứng đơ đau nhừ. Rồi thêm một tấm lều mới căng lên; mấy đứa trẻ vội tìm nước, mấy đứa anh thì lo vơ củi. Ngọn lửa nhóm lên, món ăn tối được bỏ vào nước nấu hay chiên. Vài người tới trước mon men lại làm quen, họ hỏi nhau từ tiểu bang nào? Vài người bạn hay bà con nhận ra nhau.


-Oklahoma hả? Quận nào?

-Cherokee.

-Sao, tôi có bà con ở đó. Bạn biết gia đình Allens không? Gia đình Allens ở Cherokee. Bạn biết gia đình Willises không?

-Sao không? Biết chớ.


    Cứ thế một đơn vị mới hình thành. Hoàng hôn buông xuống, nhưng gia đình mới tới đã dựng xong lều trước khi màn đêm thực sự bao trùm. Có một ý nghĩa mới hơn đang đến với mọi gia đình lúc này-  họ biết mọi nhà đều là NGƯỜI DÂN LƯƠNG HẢO.


                                    ***




    Cả đời ta biết rõ gia đình Allens. Simon Allen và cha của Simon gặp rắc rối với người vợ trước. Bà ta là gốc dân Cherokee. Bà khoan thai rỉ rả chẳng khác gì… con ngựa con đen.


 Simon con, cậu ta lấy con gái nhà Rudolph, phải chăng? Đó là điều ta nghĩ. Họ về sống ở quận Enid và làm ăn tốt—thật sự tốt. Chỉ có gia đình Allen là thành công chưa ai từng có, gia đình này từng có nhà chứa xe.


    Trẻ em đi kiếm củi và xách nước, chúng e ngại bước rón rén, cẩn thận len qua mấy mái lều. Mấy em gắng làm quen với cử chỉ chào nhau khá phức tạp. Có cậu bé dừng lại cạnh một cậu  bé khác sau khi chăm chú nhìn một viên đá xong lượm lên săm soi kỹ lưỡng. Cậu ta nhổ nước bọt chùi kỹ viên đá, xong  nhìn thật kỹ lần nữa mới đưa qua đứa bạn cùng xem...


-Bạn được gì thế?

-Chẳng gì cả tình cờ được viên đá này thôi.

-Ô, thế sao, bạn nhìn chăm chú như có gì trong đó vậy hả?

-Mình nghĩ có vàng trong đá này.

-Sao bạn biết? Vàng sao chẳng giống vàng? chỉ một màu đen của viên đá thường thôi?

-Chắc thế, ai cũng biết vậy mà.

-Mình dám cá ai nói vàng là người ngu, bạn cũng nghi nó có vàng hả?

-Không phải vậy đâu.  Ba mình tìm ra chán khối vàng, ông dạy mình cách thức nhìn viên đá như thế nào mà.

-Bạn gắng làm sao nhặt cho ra một viên đá có vàng thật lớn xem nào?

-Nói sao? Mình làm sao nhặt cho ra cục vàng “chó đẻ” lớn như bạn nói được?! nhỏ như viên kẹo chắc bạn cũng chưa bao giờ gặp, huống gì?

-Mình chẳng muốn thề thốt làm gì, nhưng dù sao mình phải thề rằng chưa bao giờ có được như bạn nói cả.

-Mình cũng thế, thôi tới suối kiếm nước đi!

***  


  Mấy thiếu nữ lại tìm nhau, thẹn thùng nói về mấy  lời bàn tán sắc đẹp của các nàng. Mấy nàng còn thổ lộ ước muốn thầm kín trong lòng cho ngày mai nữa. Nhóm đàn bà phải lo nấu nướng, bận rộn trên bếp lửa. Họ phải hối hả nấu cho xong món ăn nào đó phục vụ cho mấy cái bụng xép lẹp của gia đình— Món thịt heo dành cho nhà nào có khá tiền, đã là thịt heo thì phải đi kèm với khoai tây và hành. Món bánh bít- quy làm từ lò nướng Hòa Lan, bánh bột bắp, dùng kèm với nhiều nước sốt rải trên mặt. Thị sườn, thịt băm dùng xong còn có một lon nước trà đen đậm, chát. Nhà nào đồng tiền hạn hẹp, chỉ có bánh bột chiên. Bánh bột chiên giòn cùng một chút nước gì đó màu nâu chan lên trên là xong.


    Những gia đình giàu có, có thể họ khá dại dột dùng tiền lúc này để ăn mấy thứ hạng sang, các thứ đậu, đào đóng hộp, mỳ hay bánh ngọt đóng gói. Nhưng họ biết, họ phải ăn kín đáo trong lều thôi, do ăn công khai những thức ngon như thế thật không đẹp chút nào. Bởi sao? Ngay cả lũ trẻ con khi miệng nó ăn bánh nướng nhưng mũi chúng ngửi được món đậu hầm đâu đó bốc lên chúng sẽ buồn tủi vô cùng.

Buổi ăn tối đã xong, chén dĩa rửa rồi thì bóng tối vừa bao trùm tất cả. Lúc này nhóm đàn ông lại ngồi chồm hổm bên ngoài trò chuyện. Họ nhắc lại chuyện đất đai vừa bỏ lại đằng sau.


-Ta chẳng biết những gì sắp đến?


    Đó là điều họ thường nói đến. Đất nước này bị chiếm đoạt hết rồi. Đất nước đó dù có lại dù chúng ta không còn trở về chốn cũ.


Họ lại nói- có thể chúng ta đã phạm tội nào đó mà chúng ta chẳng hề hay biết.

Bạn bè nói với ta, nhóm cầm đầu trong đoàn vừa lập này cho rằng họ chẳng làm gì chúng ta cả do đây là thứ chính phủ thân hữu. Gã còn nói, nếu bạn vượt qua ranh giới nào đó lúc này chính phủ này chẳng nuốt chửng một ai. Chẳng cần thử thách thứ chính phủ này làm gì. Bữa tối vừa rồi cũng chẳng vượt qua ranh giới nào. Dù có ai cố đào bới không ngơi một cái rãnh thật sâu rồi chạy lanh quanh tất cả đều có đấng Jesus Christ chứng minh trong lòng.


    Họ trìu mến kể lại chuyện nhà cửa: căn nhà thân thương dưới chân cái cối xay gió. Nhờ ơn một nơi đã từng cho họ sữa làm kem còn cả dưa hấu ngọt ngào. Nửa trưa nóng bức bạn mong một nơi nghỉ ngơi mát mẻ ư, thì hãy vào nhà xong cắt ra một trái dưa hấu, nước chảy ròng ròng, ôi mát mẻ làm sao.


    Họ còn kể cho nhau về nhiều chuyện buồn đời họ: Có người em tên là Charley, tóc vàng quăn như râu bắp, nó đã trưởng thành, chơi đàn acordion rất hay. Có một ngày kia thật bi thảm đến với nó, khi đi san luống cày. Ôi, có tiếng vo vo của rắn rung chuông, đàn ngựa bỏ chạy rồi cái bừa đã cày lên Charley. Lạy Chúa Toàn năng,  những mũi cày, lại bừa lên bụng ruột, và kéo phăng khuôn mặt cậu ta.


    Họ bàn về tương lai: băn khoăn lo lắng hình ảnh nơi đến ra sao?


Ồ, công việc hái trái cây quá tốt. Ta thấy họ đang cần và khấm khá lắm, vườn hồ đào và dâu lại quá gần nhau- gần như "đít đến gáy" chú lừa vậy. Lại có chóp núi tuyết phủ trắng xóa xa xa. Một phong cảnh trông đẹp làm sao.


    Nếu chúng ta có ngay công việc ở đó thì quả là tốt đẹp. Mùa Đông không còn lo chuyện lạnh, con nít đi học không còn chết cóng người. Đám trẻ nào không đi tới trường được, ta có thể dạy do ta biết chữ nhưng bạn làm thế thì chẳng hay chút nào.


                                  *** 




    Trước lều có một gã đem ra cây đàn ghi-ta. Gã ngồi trên cái thùng rồi dạo đàn, mọi người từ các lều nghe đàn từ từ lần tới gần gã. Phần nhiều đàn ông đều biết chơi ghi-ta, nhưng người này xem chừng là dân gảy đàn điệu nghệ hơn. Thế đó, bạn có thể gã dạo những hợp âm sâu sắc, có lúc từng giai điệu y những bước chân nhỏ bé lướt trên từng sợi dây đàn. Cũng có lúc mấy ngón tay thô cứng kia lại biết diễu hành trên mọi phím đàn. Tiếng đàn càng hấp dẫn mọi người tiến gần với gã cho đến khi cái vòng người kia chật cứng, rồi gã hát:


-Mười xu bông và bốn mươi xu thịt …


    Rồi cái vòng người kia nho nhỏ hát theo gã.


        -Hỡi các em gái, sao các em nỡ cắt tóc đi?


    Rồi cả vòng người kia tiếp tục hát theo. Tiếng gã như than như khóc, “Ta đang rời xa Miền Texas Xa Xưa” bài hát nổi tiếng đó ngày xưa hát bằng tiếng thổ dân Da Đỏ, từng hát trước khi người Tây Ban Nha đến đó.


    Giờ thì mọi người kết hợp với nhau thành một thứ, một đơn vị. Rồi trong bóng tối các đôi mắt đều trầm mặc, hướng nội. Tâm trí họ để dành chuyện vui chơi vào dịp khác cốt làm sao để các nỗi buồn cùng được ngơi nghỉ, ngủ yên. Gã đàn ghi-ta lại hát bài “ Những Màu Xanh của Nhà Tù McAlester” và một bài khác dành cho người già, bài “Jesus Gọi Ta Về Phía Người”.


    Trẻ con thiu thỉu ngủ gật theo tiếng nhạc, chúng bèn mò vào trong lều. Ngoài kia tiếng hát đang đưa đám người dần dà vào giấc mơ êm đềm. Chợt gã buông đàn đứng dậy, ngáp dài:


-Thôi Chào các bạn, chúc ngủ ngon nhé!


    Mọi người thì thầm:


                -Chúc ông bạn ngủ ngon!


    Ai cũng mong gã lo cầm cây đàn cất đi, cây đàn  lúc này chẳng khác gì của quý. Mọi người tìm giấc ngủ, khu lều chìm trong yên lặng. Có tiếng cú kêu đêm, xa xa tiếng sói hoang tru lên từng hồi, vài con chồn hôi đang mò tìm thức ăn rơi rớt trong bóng tối—thứ chồn hôi đuôi bông, chúng đã tinh lại còn tự phụ chẳng sợ thứ gì trong đêm đen cả.




    Đêm dài qua đi, ánh bình minh từ từ hé dạng, đàn bà lo bước ra lều, nhóm lửa, lo đun cà phê. Đám đàn  ông tiếp tục lòn ra sau, thầm thì nói chuyện với nhau khi ánh sáng ban mai ló dần:


-Khi các bạn vượt  Sông Colorado, người ta nói chúng ta sẽ qua sa mạc. Rất mong chúng ta gặp lại nhau và không ai bị mắc kẹt tại đó. Các bạn nhớ mang nhiều nước phòng lỡ khi kẹt giữa sa mạc nhé.


-Ta chắc phải lái  xe xuyên đêm.


-Ta cũng thế: nó là cuộc sống của chúng ta mong Jesus giúp bạn.


    Mọi nhà ăn nhanh, rửa sạch dĩa chén. Lều trại đều dẹp xuống. Họ hối hả lên đường. Cho đến khi mặt trời vừa ló dạng, bãi đất dựng trại nay chỉ còn bãi trống không, chỉ còn một ít rác rưởi do đám người bỏ lại.


Dọc theo xa lộ, đoàn xe của di dân giống một đám bọ đang bò theo con đường bê tông chật hẹp, tất cả cùng nhau tiến về phía trước./.


John E. Steinbeck 1939 (The Grapes of Wrath)

CHỈ CÒN LÀ CỐ HƯƠNG (Phần 3 và hết)

  ...(tiếp theo Phần 3) RA ĐI      Giờ Pa đứng dậy vẻ hưng phấn hơn:                     -Nào nhà mình cùng nhau thu dọn mọi thứ lại đi. Nh...