Monday, September 1, 2025

TÂM SỰ NGƯỜI TÙ BINH QUA ĐÈO BA LÒNG TRƯỚC LÚC SÀI GÒN SỤP ĐỔ

 


  lời mở đầu
Ngày 24.3.1975, có một toán phim từ miền bắc qua sông Thạch Hãn để vào Huế, họ gặp toán tù binh của đơn vị ĐHL ngang đoạn Cầu Dài -Bến Đá. Sau đó toán phim đó đã hoàn thành cuốn phim ĐƯỜNG VỀ GP HUẾ. Tác giả có cơ hội copy lại hình ảnh toán tù binh của đại đội 2/TĐ105 TKQT đang bị dẫn ra hướng bắc vào ngày đó. Tối 24.3.1975 toán tù binh đầu tiên này ra tới Đông Hà và bị tạm giam tại Thôn An Lạc gần chân cầu Đông Hà cũ. Sau đó chúng tôi được về trú tạm tại trường Lai Phước bên sông Lai Phước. Hơn một tuần ở đây, càng lúc càng có đông tù binh từ hướng Huế ra...Khoảng mồng 5 tháng 4, 1975 chúng tôi bị dẫn đi theo đường số 9 lên hướng Cam Lộ...


QUA ĐÈO BA LÒNG

5/4/1975

    Sau khi ngủ qua đêm trong một đơn vị lán trại bộ đội bỏ trống tại làng Cùa, đoàn tù binh chúng tôi được dẫn bộ theo một sơn lộ đi về hướng Ba Lòng. Con đường đất đỏ quanh co, hai bên còn loang lổ hố bom, đi xuyên qua mấy trảng tranh xanh ngắt. Đi từ sáng tinh mơ khoảng xế trưa thì đoàn tù binh bắt đầu lên Đèo Ba Lòng.

    Theo lời người lính bộ đội dẫn tù cho hay-  độ dài của đèo Ba Lòng phải tới bảy tám cây số. Đường đèo thì leo dốc, do vậy thỉnh thoảng chúng tôi được nghỉ giải lao. Họ là bộ đội nên áp dụng “luật quân hành”có nghĩa đi  bộ một giờ được nghỉ giải lao mười lăm phút. Ngang lưng chừng đèo, chúng tôi được dừng nghỉ sức theo quy định. 

    Toán tù binh được nghỉ giải lao, tôi để nguyên cái ba lô dựa vào vách núi. Vài ngọn đót, mấy vòi mây nước từ trên cao buông xuống, lay động vu vơ trước mắt tôi. Tai nghe xa xa tiếng ve núi bắt đầu 'ca vang' đón hè rền vang trên vách núi. Trời tháng Tư khí hậu Quảng Trị bắt đầu nóng. Cái áo ka ki của tôi giờ đã thấm ướt mồ hôi. Gần ba tuần , tù binh bị giam tại trường tiểu học Lai Phước chưa có gì cả? Ai có gì bận đó; đa số còn bận áo lính, chân mang đủ thứ dép. Có điều đặc biệt không ai được mang giày lính?

    Có mấy cán bộ VC dẫn tù, có thể là cấp úy, họ có bình thủy nước trà mang theo uống dọc đường. Tôi chưa quên một kinh nghiệm khá 'lạ lùng' khi những người này chỉ cho tù binh khi lên dốc nên mang ba lô ngược trước ngực, sức nặng sẽ kéo giúp đi lên mạnh hơn. Trái lại lúc xuống đèo, thì đưa ba lô  trở lại phía lưng- nó sẽ kéo người lui sau, khỏi chúi người. Thật là thứ kinh nghiệm vượt đèo khác lạ, lần đầu tiên trong đời chúng tôi biết được.

     Quy định dừng chân tạm nghỉ là mười lăm phút cho một giờ đi, nhưng thời gian nghỉ có khi khá lâu. Mấy người bộ đội kia cho biết lên tới đỉnh đèo xong, đổ xuống bên kia là thung lũng Ba Lòng. Sắp tới thung lũng đó hay sao? Như thế là đoàn tù này sẽ tới Ba Lòng, cái đích của chuyến đi.


     Tôi tiếp tục dựa lưng vào vách núi ngắm cái hẻm núi trước mắt mình. Vài đám mây nhàn nhạt như đang vướng víu vào sườn núi, trôi la đà dưới đó. Những làn mây mỏng không che hết màu xanh của lá cây. Tiếng ve sầu mùa nắng thỉnh thoảng ngưng kêu, trả lại sự im lặng cho núi rừng.


Mới hôm qua,  lần đầu tiên chúng tôi ăn củ cây bông chuối (trước tôi gọi là chuối tây), ngày xưa người mình hay trồng làm cảnh. Họ cho  tù binh nhổ lên, nấu ăn tối. Té ra chuối tây phần củ của nó khi nấu chín ăn chẳng khác gì củ hoành tinh. Họ bảo đó là cây "cứu đói". Bộ đội ăn rồi trồng lại ngay để bộ đội tới sau có "cái ăn". Đất Cùa quả thật tốt. Những bụi cây bông chuối cao ngang đầu người, rậm rịt, chúng che mất mấy "cái lán" nho nhỏ. Một đơn vị bộ đội nào đó từng ở đây giờ họ đi đâu, chỉ còn lại những túp lều vách đất, trống không?

    Bao nhiêu hình ảnh xáo trộn trong đầu...thế mà ba tuần rồi, tính từ lúc đại đội chúng tôi "tan hàng" tại Mỹ Chánh. Mười bảy người bị dẫn bộ ra đến bên kia cầu Đông Hà và bị giữ ở đó tại Thôn An Lạc vài ngày. Thời gian này chúng tôi nghe tin Thuận An  quá hỗn loạn? Tiếp đó lại nghe tin Đà Nẵng ...Đó là những chiến thắng phía họ "cố tình" cho toán tù binh chúng tôi biết. Sau đó họ dẫn chúng tôi vào lại tại một trường học gần cầu Lai Phước, đóng tạm tại đây. Tù binh trong Huế ra càng lúc càng đông. Hàng ngày chúng tôi được ra con sông Vĩnh Phước tắm giặt. Khoảng hai tuần, đoàn tù có lệnh di chuyển. Chúng tôi được dẫn bộ theo đường số Chín lên đến Cam Lộ thì rẽ lên hướng Cùa. Tối qua và đi đến trưa nay thì cả đoàn tù được dừng  nghỉ tại đây.

Từ độ cao này tôi định hướng nhìn về hướng dưới kia- Đông Hà hay Quảng Trị một đường ngang của một dải đồng bằng hẹp, bằng phẳng. Hướng nam trong kia xa hơn. Giờ này thì Huế và Đà Nẵng mất rồi. Hai tuần tù binh trú tạm tại trường học Lai Phước cạnh con sông, tù từ trong đó ra càng lúc càng đông: nhiều thứ lính: từ áo ô liu cho đến rằn ri.  Giờ trong nam ra sao? Bình Tuy ra sao? Người ta đồn ranh giới hai bên có thể là Phan Rang? Tôi mong sao được như thế. Nếu được thế Bình Tuy, bà con tôi bà con QT còn thuộc VNCH còn lại...hình ảnh ngày cuối cùng tôi bị bắt. Ruộng Ưu Điềm mới cấy, Làng Siêu Quần- cái làng có đàn muỗi vo ve đến 'chóng mặt'. Về ngược lại Trạch Phổ gần Ưu Điềm bên này sông Ô Lâu nơi nào đồng bào cũng chạy sạch? Chuyến xe tiếp tế cuối cùng và tin chợ Đông Ba cháy đó là những tin tức sau cùng trong đời quân ngũ. Cho đến ngày 23 tháng 3- cái ngày tôi và mười mấy người trong đại đội trở thành tù binh bên sông Mỹ Chánh.  Đám ruộng làng Trạch Phổ, Ưu Điềm thuộc Xã Phong Bình có tên trên tấm bản đồ mà người trung đội trưởng như tôi luôn nhét trong ngực. Tấm bản đồ cùng quả lựu đạn mini nhỏ xíu- quà kỷ niệm của cậu tôi cho ngày ra phép cuối năm 1974 tôi ghé tạt qua Sơn Trà, một đơn vị Lôi Hổ- tất cả đều vứt lại tại cánh ruộng mới cấy đó...

       nguồn Thạch Hãn (Ba Lòng)

Dòng suy nghĩ của tôi dừng lại khi toán ‘quân’ nói đúng hơn là toán tù được lệnh tiếp tục đi. Có vài người  kiếm đâu ra thanh cây lụi làm que chống để lên đèo, riêng tôi thì không. Tôi và Ngọc do là hai sĩ quan trung đội nên cùng có nhau trên chuyến đi Ba Lòng này. Có một số khác đều từ Huế ra: Bãi Thuận An, Phú Bài, Trung đoàn 54...chúng tôi chưa biết nhau.

Hơn hai tiếng đồng hồ, toán tù binh đã lên đến đỉnh và tiếp tục đổ đèo. Tầm nhìn bên kia bắt đầu mở rộng trước mắt chúng tôi. Một phong cảnh hoàn toàn khác lạ. Bắt đầu xuống đèo...dưới kia thấp thoáng ánh nước một dòng sông. Thạch Hãn và Thung Lũng Ba Lòng đó rồi chăng?!


Trí nhớ tôi trôi về một thời bé dại, khoảng năm 1960, tôi mới bảy, tám tuổi được ba tôi dẫn lên thăm Quận Ba Lòng, tức là thời TT Ngô đình Diệm. Nhưng lúc đó ba tôi theo đò chèo ngược dòng Thạch Hãn để lên quận này. Thời gian đó, Quận Ba Lòng vẫn còn. Quận và Chi Công An của thân phụ tôi thời đó  còn đóng tại thung lũng Ba Lòng.  Tôi mới sáu, bảy tuổi nên trí nhớ không rõ ràng lắm. Giờ này, dù ai có giải thích hay nói một tên khác nhưng tôi từng tới vùng đất dưới kia từ thuở bé thơ. Đó là một ngày có con đò chèo từ thành phố thân yêu lên ngược Thạch Hãn, tận một thung lũng có tên Ba Lòng. Một nơi có làng mạc có dân cư hiền hòa cùng những đồng bắp tốt tươi. Riêng tôi, tất cả hình ảnh nằm trong kỷ niệm như thôi thúc chân tôi bước nhanh hơn để xuống đèo xem tận mắt giờ cái vùng kỷ niệm nay ra sao.

Trở về thực tại, những người tù binh chúng tôi cố bước theo nhau- những bước chân đi như không định hướng. Sự sụp đổ của miền Nam lan nhanh không ai ngờ mà chẳng ai chống lại được? Tôi vừa đi vừa thả hồn về hình ảnh cũ: Rà Vịnh- Ba Lòng- Bến Đá Nổi...những nơi tôi sẽ về lại khi xuống hết con đèo. Có thể người bên kia chiến tuyến chưa ai từng nghe qua. Đối tôi vẫn giữ mãi trong lòng những cái tên đó...Một ngày xưa có tiếng chèo của người trạo phu khua nước trong đêm, có thằng bé theo cha ngược dòng Thạch Giang lên tận một nơi được người viết xem như là một "thung lũng thần tiên".  

Thế mà ngờ đâu? Gần hai mươi năm sau, đứa bé kia lại có chuyến trở về với cái thung lũng "thần tiên" đó nhưng trong thân phận của người tù binh chiến bại. Ngoái về hướng nam, người tù bình biết chắc một điều là Xuân Này Con Không Về, mẹ và người thân yêu xin đừng đợi nữa.

MỘT KHU LÁN TRẠI ĐẦU NGUỒN SÔNG THẠCH


Đoàn tù binh xuống hết đèo Ba Lòng thì trời đã về chiều. Nguồn sông hẹp và cạn nên chúng tôi chỉ lội một chút chi là qua sông. Đầu nguồn vào tháng này nước vừa ít vừa chảy chậm, trông chẳng khác gì một dòng suối lớn.Tôi cố tìm theo trí nhớ xem thử còn một bãi đá ven sông, một bờ sông có vô vàn viên đá lớn tròn trịa. Giờ cái tên "Bến Đá Nổi"  nó ở đâu, tôi không còn thấy được? 













Trước mắt tôi, một cánh rừng hoang vắng, rậm rạp, không bóng người, không làng mạc, dân cư? Từ 1960 cho đến lúc toán tù binh chúng tôi bị dẫn tới đây là mười lăm năm.  Đúng mười lăm năm có nhiều thay đổi cho một vùng mang danh là "Miền Hỏa Tuyến". Khoảng 1963, tôi mới học lớp ba, đó là năm đảo chánh, Quận Ba Lòng cũng mất từ năm này. Từ đó người Tỉnh Quảng Trị ít nghe ai nhắc đến địa danh Ba Lòng.  Một vùng dân cư miền núi mới lập lại trong thời cụ Diệm, nhưng nếu ta lấy cái năm 1960 MặT Trận thành lập, chiến sự từ đó leo thang và Ba Lòng xem như 'xóa sổ' là điều tất nhiên. Sau này lúc còn đi học tôi còn nghe Tuyến McNamara thành lập đi kèm với việc “bạch hóa” hoàn toàn quận Gio Linh. Khu Định Cư Cam Lộ tiếp tục vụ Hạ Lào, Mùa Hè Đỏ Lửa cho đến hôm nay những ngày cuối cùng của tháng Tư 1975 xem như định mệnh một miền nam đã được QUYẾT ĐỊNH.

Lại một lần nữa chúng tôi được vào một khu lán trại bộ đội bỏ hoang ven sông. Có tiếng đồn rằng “hàng binh Trung Đoàn 56” của ông Trung tá Phạm v Đính có trú ngụ tại đây? Tiếng đồn còn ‘gay cấn’ hơn nữa là số quân này có tham gia với quân “Cách Mạng trong trận đánh úp Cửa Việt của VNCH trong đêm rạng ngày 27/1/1973 trước khi Hiệp Định Ngưng Bắn ký kết? Những lời đồn nghe “cười ra nước mắt” tin không tin tùy người nhưng “lưỡi không xương nhiều đường lắc léo” chả có gì chứng cớ? Chỉ có một chuyện đúng: mùa hè 1974 tôi đóng quân tại Vĩnh Hòa Phường là chốt cuối cùng tại mạn biển, còn Cửa Việt thuộc phía họ. Từ Vĩnh Hòa Phường men theo bờ biển ra tới Cửa Việt phải vài ba cây số. Đường ranh ngưng bắn 1973 vạch từ Vĩnh Hòa Phường cắt lên Long Quang, Nại Cửu cắt An Tiêm vượt qua sông lên tới miền núi ...



Cái “miệng hại cái thân” có anh chàng tân binh nào đó trạc tuổi em trai tôi, anh ta mới học xong ở Dạ Lê, Phú Bài lại nghe đâu khai là “trung úy” thế là bị theo đoàn tù binh chúng tôi đi tận đây? Người lính đó có cãi chính, thanh minh gì chẳng có cán bộ vc nào tin. Người bộ đội của bắc quân, họ chỉ tin vài tờ giấy “bàn giao” trong đó có mấy dòng nguệch ngoạc của anh du kích hay cán bộ nào trong Huế ghi xong. Thế là anh chàng ta bị bắt đi theo đoàn tù từ Huế ra.  

Có một chuyện khá bi hài cho tù binh VNCH. Tác giả tin rằng, có khi “trong cái rủi có cái may”.  Đại đội chúng tôi thất trận và bị bắt trước tại Ưu Điềm lúc Huế chưa mất, do đó chúng tôi lại bị 'lội bộ' ít hơn. Từ Lai Phước đi bộ lên đây mất hơn hai ngày đường. Nghe đâu sau này tù binh từ Huế ra quá nhiều. Đi bộ từ trong đó ra ‘toe cả chân’ lại phải ngược theo đường Chín lên tới Tà Cơn, Khe Sanh?! Chỉ tính từ  Cam Lộ lên Khe Sanh cũng phải xa thêm 65 cây số nữa...chúng tôi đi trước nhưng chỉ ngang đây, số người còn ít ỏi nên dễ thở hơn sau này, thật còn may!

Mấy tuần của tháng Tư này chúng tôi ở đây. Từ trên “khung” của cán bộ xuống các lán đất chúng tôi chẳng có hàng rào nào. Chúng tôi đủ loại lính từ TQLC, Bộ Binh, Địa Phương. Phần nhiều là lính và hạ sĩ quan. Có một số sĩ quan nhưng ít hơn...


                                          
30 THÁNG 4, 1975 

            -Đúng 11 giờ 30 tổng thống "Ngụy Quyền" Sài Gòn Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ...


    Tiếng phóng thanh từ cái loa trên nhà cán bộ phát ra. Đó là tiếng của đài phát thanh Hà Nội từ “Khung” lanh lảnh dội xuống toàn khu trại tù binh sáng ngày đó làm tôi lạnh toát người. 

Tôi cảm thấy choáng váng, tai không dám tin vào sự thật đang đến? Sau hơn năm tuần làm thân phận tù binh:

  
  -Thế là hết!

   Ba tuần của tháng Tư bị giam tại thung lũng này.  Ba tuần kết tủa từ nhiều suy nghĩ, lo âu, hồi hộp cùng nhiều nhung nhớ lao lung. Đến hôm nay buổi sáng 30 tháng Tư của cái năm Một Chín Bảy Lăm chúng tôi đang trực tiếp nghe và nhận lấy một sự thật não nề.  Tính từ ngày 23 tháng Ba, đúng NĂM tuần căng thẳng lướt qua trong đầu... Hơn một tháng trời,  tôi cố gắng hình dung một Sài Gòn đang chiến đấu trong đó ra sao?  Có thể là những hình ảnh hỗn loạn, căng thẳng, những co rút chiến sự thảm thê, máu lửa. Nhưng tôi và những tù binh khác đã hi vọng một vài sự kiện gì đó xảy ra, tuy vu vơ và thất vọng. 

   Từ đầu tháng Tư 1975, trong thung lũng Ba Lòng chúng tôi vẫn "bị" nghe nhiều tin chiến sự.  Cán bộ  VC coi tù binh hàng ngày khoe khoang sức tiến nhanh của lực lượng họ. Chúng tôi còn nghe được sự chết chóc ghê gớm của hai phía tại Tuyến cuối Long Khánh do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy tại vùng ranh cuối cùng bảo vệ cho Sài Gòn...
 
    Những ngày cuối tháng Ba 1975, lúc vừa bị bắt tai Mỹ Chánh ra tạm giam tại thôn An Lạc bên Sông Đông Hà tôi còn nhớ có hai cán bộ chính trị viên hay kêu chúng tôi lên “Khung" tức là nhà của cán bộ. Lý do: Ngọc và tôi tuy là hai trung đội trưởng nhưng là hai sĩ quan duy nhất trong đám tù binh đầu tiên qua sông Thạch Hãn. Ngày đầu toán tù binh 17 người chúng tôi qua sông Thạch là 24.3.1975. Hai chính trị viên nói giọng Bắc, hơi thâm trầm. Họ cần chúng tôi cung cấp những thông tin nào mà chúng tôi biết được về phía quân lực chúng tôi. Thời gian đã lâu tôi không còn nhớ họ hỏi chúng tôi những gì ? nhưng đại khái về cách thức bố trí mìn bẫy, quân số đơn vị, những gì tôi biết.

   Cứ mỗi lần lên 'khung' tức là nơi ở của cán bộ Trại,  ông ta khoe với hai chúng tôi sức tiến quân phía họ. Quân miền bắc tiến vào ngang tỉnh nào, trên cái bản đồ trong phòng, ông ta bôi đỏ tỉnh đó.

Mới hai, ba hôm trước tôi còn nhớ ông ta bôi đỏ Bình Tuy, rồi Long Khánh...

Hi vọng của tôi theo từng ngày tan biên
 dần.  Những ngày tôi vẫn cò chút hi vọng miền nam còn lại 'phần nào đó' trong xa kia...

Những đêm tôi nằm nhẫm lại những mốc thời gian vừa qua:

-24/3/ 1975 Những ngày này còn bị giam tại thôn An Lạc chân cầu Đông Hà cũng người chính trị viên này bắt Ngọc và tôi thu vào băng nhựa kêu gọi anh em tại biển Thuận An 'buông súng' . Ông ta từng bôi những chữ " được đối xử tử tế theo 
TINH THẦN QUY ƯỚC GENEVA..." phải đổi lại "... theo SỰ KHOAN HỒNG CỦA CÁCH MẠNG'. 
Cuối tháng Ba, tôi con` hi vọng '
RANH GIỚI NGƯNG BẮN' sẽ là đèo Hải Vân?

Rồi tin Huế mất 26/3, Đà nẵng mất 29 tháng 3 /1975... tất cả sự kiện này các tù binh đều được cho hay. Có thể họ cố tình lung lạc tinh thần chúng tôi.

Rồi tại BA Lòng, non một tháng Tư 1975 đoàn tù binh bị giam tại các lán trong thung lũng đó. Những ngày đi cùi gạo. Những kho gạo do Thuợng Cộng cầm súng Ak canh giữ . Những người bộ đội CS người Thượng,  mặt mày họ lầm lì, khẩu AK đeo ngang trước bụng, ngón tay hờm vào cò súng. Mắt họ lườm lườm nhìn chúng tôi, im lìm. Có thể họ không nói được tiếng Việt. Trước kia  tôi được biết những bộ đội Thượng Cộng rất trung thành không gì lung lạc họ. Giờ đây nghe mấy cán bộ dẫn chúng tôi đi nhận gạo khoe họ đúng là trung thành, từng giữ các kho gạo dự trữ này mấy năm nay tại thung lũng này một cách kiên trì không hao hụt gì . Gạo mốc meo mục nát, thay bao nhiều lần . Đây là gạo dự trữ nhiều năm để 'đánh miền Nam'. Theo thời gian nay cứt chuột quá nhiều, đen như những hạt đậu, giờ cho tù binh ăn. cán bộ CS ở đây có cho chúng tôi biết, những kho gạo này dự trù cho "chiến dịch HCM kéo 
DÀI ÍT LẮM LÀ 2 NĂM"! 

Đoàn tù  đi cùi gạo, thung lũng Ba Lòng rộng lắm; sáng chúng tôi đi chiều mới về lại trại, mất cả ngày. Thung lũng này đã mất hết vết tích. Quá khứ tuổi thơ khi tôi lên đây lúc Quận Ba Lòng vẫn còn.  Chi Công An và Quận kề nhau, gần gũi xóm làng.  Những ruộng bắp đậu xanh ngút ngàn. Những buổi các chú trong Chi ba tôi đi săn heo và gà rừng, những nồi thịt heo rừng các chú kho với lá lốt rừng...Giờ thì chẳng còn chi ngoài rừng rậm, những cái khe trôi ngoằn ngoèo trong thung lũng, bao dòng nước trong vắt, lạnh mát đôi chân. 

***
 
Tôi nhớ lại chiều 23/3/1975 khi bị bắt tại Thôn Trạch Phổ,gần Ưu Điềm trong lòng tôi vẫn tin có ngày trao trả giống năm 1973 khi ranh giới ngưng bắn hai bên sẽ rút vào nơi nào đó?

Tôi vẫn là người tù binh, vẫn những cảm nghĩ và hình dung một ngày trao trả? Một ranh giới cuối cùng của một phía thối lui và phe kia lấn tới lắp đầy chỗ trống cho đến một 'thỏa thuận mơ hồ' trong trí tưởng tượng của tôi hay của một số người?

Có khi tôi lại tính toán hay hi vọng có một ngày ba mẹ tôi trong nam sẽ được 'truy lãnh' HAI năm lương cho những người lính mất tích hay bị bắt làm tù binh?   Nhưng phải có một điều kiện khi mọi người còn một niềm tin nào đó để cùng cố mà hình dung ra một 'RANH GIỚI NGƯNG BẮN' cuối cùng cho đôi bên ở một nơi nào trên mảnh đất teo tóp dần hồi của phía chúng tôi?

Nhưng rồi...

Đà nẵng mất, hi vọng tuyến ngưng bắn Hải Vân tiêu tan. Có tin đồn hai phía sẽ ngưng bắn ở Phan Rang rồi Phan Rang và tiếp đến Bình Tuy mất...

***


Từ cái loa phóng thanh dành cho học tập trong trại, chúng tôi nghe rất rõ cái giọng the thé của người phát thanh viên nữ giọng Bắc:

   -
Đúng 11 giờ 30 Tổng Thống Sài Gòn Dương văn Minh ...

Rồi những bản nhạc  "Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng" "Tiến Về Sài Gòn"... dồn dập phát lại.

Cán bộ  trong trại reo hò, các 'vệ binh' tức là bộ đội  reo hò. Những cái radio của cán bộ mở lớn 'hết volume'! 
Hôm nay trại không đi đâu. Tất cả chúng tôi được ở trong trại để  liên tục nghe loan tin ĐAI THẮNG phía người ta.

Tôi không nhớ tôi có khóc hay rơm rớm nước mắt  không? Nhưng thứ cảm giác tôi nhớ rõ nhất đó là nỗi buồn tê tái. Mình tôi lạnh ngắt, một tâm lý hụt hẫng, sâu lạnh lẫn bơ vơ lạc lõng... Tuy đã là tù binh nhưng mới hôm trước trong tôi vẫn còn hình tượng một miền nam 'vẫn còn', gia đình tôi trong kia -Bình Tuy- 'vẫn còn'?

Giờ gia đình tôi trong nam ra sao?  Cả nhà đã mất tin tôi hơn tháng nay. Gia đình Ch/úy Ngọc, người sĩ quan cùng đại đội tôi, thì ở Huế, gần hơn nhà tôi. Huế mất vào hôm 26 tháng Ba, Ngọc buồn trước tôi hơn một tháng rồi.

Trung đội Trưởng Nguyễn v Ngọc cùng đại đội tác giả bị bắt cùng ngày 23/3/1975 đang đi trong toán tù binh bị dẫn ra Đông Hà ngày 24/3 (hình cắt từ phim)


Giờ đến phiên tôi. Sài Gòn đầu hàng xem như số phận Bình Tuy đã xong.  Ba mạ và các em tôi ra sao? nhà tôi hơn một tháng nay chắc quay quắt vì tin tôi. 

     - Thôi rồi, tất cả sụp đổ!

Thực tế trước mắt tôi sáng ngày 30 tháng Tư đó là hình ảnh rộn ràng, âm thanh huyên náo của các cán bộ trên nhà chỉ huy, một đất trời sụp đổ của sự chết lịm từ những niềm tin bám víu, tất cả như quay cuồng  xoắn tít, tạo thành một 'ảo giác' nào đó làm tôi lịm ngất hay chóng mặt rụng rời.

 Tôi như nằm mơ. ..Có tiếng lao xao mừng rỡ của một số lính thủy quân lục chiến. Họ là lính, họ mừng vì họ sẽ được cho về nam như lời các cán bộ kia hứa hẹn trước: rằng "ít tội hơn cấp chỉ huy".  Những người lính kia dù là 'thứ dử' họ cũng phải về trước thôi. Sụp đổ rồi, thế là xong. Mảnh giấy trắng, cán bộ nguệch ngoạc vài chữ, những người lính này sẽ về nam. 

Còn chúng tôi, số sĩ quan sẽ ở lại.  
       

Chúng tôi chấp nhận tháng ngày trước mắt ra sao 

cũng được.  Chúng tôi không phải là lính mà là những người đã thụ huấn với trình độ chính trị khác với những người lính. Sự chấp nhận đó là lẽ ĐƯƠNG NHIÊN là CÔNG BẰNG giữa trách nhiệm và thụ hưởng, giữa vinh quang và hậu quả mà thôi.   


Những cán bộ chính trị viên  sẽ "lên lớp" trong tư thế khác. Họ là kẻ chiến thắng. Trong một tình huống khác xa vượt qua tầm tưởng tượng của tôi:


            -SÀI GÒN ĐÃ ĐẦU HÀNG!



    Có nhiều hi vọng vu vơ vẫn bám víu vào tâm trí 

người tù binh. Tôi vẫn tin vào 'trao trả, trao 

đổi'- một giá trị gì đó khi quân đội và một miền nam vẫn còn. Trong chiến tranh, thắng bại lẽ thuờng. Khi thua nếu ai không bị giết thì làm tù binh. Tôi còn mừng do còn sống tức là còn có ngày được 'trao trả', được trở về với một miền nam còn lại...


Hơn một tháng trời tôi từng hi vọng sẽ có một NGÀY TRAO TRẢ TÙ BINH- tương tự hình ảnh trao trả đôi bên bờ Thach Hãn vào năm 1973. Rồi  sự thật cuối cùng đã đến. Một buổi sáng,  tất cả hi vọng  vỡ tan như bong bóng xà phòng!!!

Một sự thật đau buồn, hoàn toàn ngoài  mong đợi, ước đoán, tàn nhẫn phủ chụp lên chúng tôi vào sáng 30 tháng Tư,1975 trong một Thung Lũng đầu nguồn Thạch Hãn ./.

ĐHL 

edition 
2/9/2025

PHÉP TRỊ VỢ PHẦN 3 (HẾT)

 PS: 

TÀI LIỆU HÀI KỊCH NÀY KHÔNG THỂ TÌM RA TRÊN ONLINE NỮA, CUỐN PHIM VCR ĐÃ HƯ TỪ LÂU, TÁC GIẢ PHẢI TÌM 1 NGÀY MỚI RA LẠI TRONG COMPUTER VÀ UPLOAD LẠI VÀO YOUTUBE 




























PHÉP TRỊ VỢ LA THOẠI TÂN - XUÂN PHÁT - HỮU PHƯỚC ( PHẦN 2)

 PS: 

TÀI LIỆU HÀI KỊCH NÀY KHÔNG THỂ TÌM RA TRÊN ONLINE NỮA, CUỐN PHIM VCR ĐÃ HƯ TỪ LÂU, TÁC GIẢ PHẢI TÌM 1 NGÀY VÀ MAY MẮN VỪA TÌM RA LẠI TRONG COMPUTER VÀ UPLOAD NGAY VÀO YOUTUBE 


Hữu Phước (24 tháng 7 năm 193521 tháng 2 năm 1997)
































ĐINH HOA LƯ- TÙ ĐI 'SỤC' CÁ RA SAO?

 

NHỚ CHỢ CAM BÌNH MỘT NGÀY XƯA TRÀN ĐẦY KỶ NIỆM

 

CHUYỆN KỂ VỀ MỘT NGÔI CHỢ CỦA DI DÂN QUẢNG TRỊ

VIDEO BY THANH NHO  (CAM BÌNH)

 
                              
                       CẢNH CHỢ CHIỀU (hình do tác giả Nguyễn Đức và bài thơ Chợ Chiều)

Tác giả Nguyễn Đức có một lần đi ngang ngôi chợ quê Cam Bình tức cảnh sinh tình, tác giả mới tặng người Cam Bình bài thơ như sau 

GÓC CHỢ QUÊ.

Chợ quê bán sáng, nghỉ chiều,
Hè về phượng vĩ đỏ đều trời xanh.
Nghỉ chiều! nên chợ vắng tanh,
Đường quê lắt lẻo uốn quanh chợ chiều.
Ai về ta gởi đôi điều,
Thăm quê, thăm chợ, thăm nhiều người thân.
Chợ quê nho nhỏ lại gần,
Tình làng nghĩa xóm, ân cần yêu thương.
Chợ quê một góc bên đường,
Gần thương, xa nhớ...
quê hương...
của mình.



    Bài thơ tuy ngắn nhưng nó đã nói lên một tâm tình chân thật, một cảm xúc có hồn của những người luôn yêu thương người dân sống xa nơi phồn hoa đô hội. Những người dân nơi rẫy sắn nương khoai, những sinh hoạt giản đơn những nhu cầu hạn hẹp nhưng tình làng nghĩa xóm luôn ân cần gắn bó 
xin mạn phép tác giả Nguyễn Đức để mào đầu cho bài viết trong lần tu bút này.

ĐHL 

***

Tưởng niệm mạ với một thời nhọc nhằn nơi cái chợ thôn xưa  
   

     Địa điểm chợ Cam Bình hiện nay, người viết nghe bà con kể lại rằng  bỗng được dời từ chân dốc Trung Giang về, tức khoảng năm 1977. Khu chợ mới mang tên thôn Cam Bình có thể do người Quảng trị muốn lưu lại cái tên Cam Lộ-Bình Long chăng ? (xin xem hiệu đính phần cuối bài [1] ] Nơi mua bán mới mẻ này nằm trên một khoảng cát trắng, bằng phẳng.  Như thế mỗi sáng, người thôn tôi khỏi cái nạn đi ngược lên dốc.  Thêm một thuận lợi do chợ nằm bên đường Tỉnh lộ 55 dẫn về thị trấn La Gi. 

    Xã Tân Mỹ vào cuối thập niên 1980 xem như "xóa sổ" vi` nhập vào Tân Thiện một nửa , còn nửa kia trên đồi nhập vào xã Tân sơn. Chợ Cam Bình, cũng như cái trường mang tên Cam Phú gần đó vẫn giữ nguyên tên tuy đã mang tên mới là xã Tân Thiện. Đó là những cái tên, nói từ miệng người dân chứ không thấy ghi tên văn bản giấy tờ gì. Người mình tự đặt với nhau lâu ngày thành quen miệng . Xã Tân Thiện mới rộng hơn , sáu thôn liền một dãy. Chợ  ở vào cái thôn cuối cùng của xã tức là Thôn Sáu.

  Mấy thôn này dù sao cũng mang một chút hình ảnh  đồng bằng tuy không "thẳng cánh cò bay".  Vài ba mẫu ruộng hai bên con đường đất dẫn về thị trấn La Gi nơi phố phường đông đúc, thuộc huyện Hàm Tân. 



 Nơi này có cái "đình chợ". Người ta gọi thế  cho ra vẻ, thực ra nó chỉ là những khung nhà trống xiêu vẹo lợp tranh, sau này được thay thế hai mái tôn cũ. Tuy vậy "mái đình" ưu tiên cho những sạp hàng nào giá trị như hàng vải hàng xén...chủ những cái sạp hàng "tạp nhạp" tạo thành hai dảy nằm ngoài đình. Những cái sạp đan bằng cây rừng , trên che vài ba tấm tranh tạm bợ. Người dân quê thuờng mua những thứ cần dùng tại đây, họ cần nhất là thuốc hút , gia vị. Vào buổi sáng khoảng trống trước chợ là nơi mua bán rộn ràng. Những gánh bột lọc trắng tinh, những trái mít chín thơm ngát, những gánh khoai sắn nặng trĩu, nào dưa gang, dưa huờng, cùng bao thứ rau trái khác,  gà,  vịt ... đa phần từ trên dốc Tân Sơn gánh về. 




buổi chợ  mai Cam Bình vào vào năm 1995

Người buôn  mua lại nông phẩm đem về chợ tỉnh dưới kia. Vùng này cao hơn gần dốc dân mình ở đây gọi là vùng trên còn miệt dưới huyện Hàm Tân thấp hơn , vùng đồng bằng sát biển thì người ta gọi là "dưới". Xe đạp là phương tiện chuyên chở thông dụng nhất lúc này. Những thúng khoai nặng nề , những trái bí tròn trịa được con buôn bỏ vào bao chở sau xe đạp. Những trái mướp thơm dài "thòon" ưu tiên treo vào ghi đông đằng trước. Mấy o con gái Cam Bình  mua đi bán lại trong ngày nhanh nhẹn chạy về kịp chợ sáng La Gi. Tảo tần khuya sớm, trưa về cũng đủ tiền gạo- mắm nuôi cha, giúp mẹ.

  Người viết phải kể lên đây hình ảnh những chiếc xe thổ mộ, phương tiện xe ngựa này chắc hẳn ngoài quê chưa bao giờ có.  Họ ở dưới Ngả Tư Quân Cảnh hay là thôn đầu Tân Thiên thay phiên nhau lên đây chở hàng và khách. Mỗi xe một ngựa, xe độc mã. Con ngựa kéo gầy gò, nhẹ bấc so chiếc xe chở hàng quá nặng. Những bao khoai, sắn, chất cao trên mui , người chật nít bên trong ! chưa hết ! còn bao nhiêu thứ lủng lẳng treo hai bên nữa. Lúc này, cái càng xe đằng trước bị nhấc lên cao kéo theo cả con ngựa "khốn khổ" lên trời, bốn vó nó "chới với" trên không. Chú tài nhảy xuống cùng thêm vài người khách , í ạch một hồi mới kéo được con ngựa cùng cái càng xe xuống lại.  Tạm gọi là "bến xe ngựa", họ chờ khách trước nhà máy xay Liên Cao . Bến xe ngựa và  nhà máy xay đã góp phần  làm cho cảnh chợ thêm phần nhộn nhịp.

  Chợ cá "khiêm nhường, núp" phía sau, gần lối ra biển. Hiếm khi thấy cá lớn. Cá lớn , mực , tôm , những hải sản đắt tiền ngư dân chỉ đem về thành phố La gi, ưu tiên "xuất khẩu", chợ quê làm gì mua nỗi ! ngoại trừ vài ba mớ cá vụn, gánh vội vào đây. Trời bù cho là cá rất tươi, biển gần, mới vô, chỉ non cây số. 


Những lúc biển động, đó là lúc người làm nghề ngư có lúc câu được loại cá đuối thật to, hai người gánh mới nổi. Cá đuối lúc này thành phố không chuộng, "xuất khẩu " cũng chê, mới "trôi dạt" vào ngôi chợ nghèo.

hình minh họa xe than từ dốc Tân Sơn sắp qua chợ Cam Bình 


  Đằng trước
, rộn ràng vài ba tiếng đồng hồ vì Cam Bình là đầu mối cho những mặt hàng rau quả buôn về thị trấn. Những chiếc xe đạp chở rau quả, những chuyến xe ngựa, chất hàng xong, lóc cóc theo sau chạy về huớng tỉnh. Rồi ngược lại, những o con gái Cam Bình buôn hàng từ La Gi cũng vừa lên tới. Chợ bán đi những hàng nông phẩm, thì cũng cần tiêu thụ những thứ buôn lên từ La Gi. Vài ba ký thịt heo, thịt bò loại hai, loại ba, có nghĩa là "thịt vụn" được buôn lên đây. Vài thứ rau quả Đà Lạt như ca rốt , su hào, ít mớ khoai tây cũng loại "hai, ba", người ta gọi là hàng legume, vài chục ổ bánh mỳ mới ra lò tô điểm  thêm cho "mặt hàng thành phố". Người bán kẻ mua, bà con thôn xóm cả thôi. Những cô con gái lớn lên từ vùng đất trước đó gọi là Động Đền quanh quất chẳng ai xa lạ. Sau này ngôi chợ to dần, mấy chiếc honda đời cũ dần dà thay thế mấy chiếc xe đạp.

        cảnh chợ Cam Bình ngày ba mươi tết 1995 với những bó hoa bình dân


Con đường liên tỉnh lộ 23 (nay 55) đi qua chợ Cam Bình -thời chưa đổ nhựa.  Bên đường những chiếc xe thồ Minsk đứng đợi khách-cái đình chợ ở giữa vẫn còn, trái là nhà máy xay Liên Cao và Tiệm hàng xây dựng Sáu Huế  [hình Thanh Nho]

              ĐỘI BÓNG CAM BÌNH trước năm 1995
trước quán cà phê chú Thậm (qua đời 2017). Ở giữa là bác Lê v Linh (đã qua đời )+ Anh Thành làm cho Xã Tân Thiện & lớp trẻ xung quanh nay đã khá tuổi con cái đùm đề 

   Con đường Tỉnh Lộ 55 (ngày xưa còn gọi là liên tỉnh lộ 23) đi qua chợ Cam Bình,  tiếp tục được tu bổ nhiều lần. Bao lớp đất đỏ từ xa chở về, đắp dần cho đến Bình Châu. Bộ mặt ngôi chợ từ đó thay đổi. Vài ba quán cà phê:  quán Chú Thậm, Chú Thư. Tiệm chụp hình & thuốc tây của Chú Nho, tiệm bán đồ xây dựng Sáu Huế, nhà máy xay Liên Cao sau này thành tiệm tạp hoá, đại bài gạo Lâm Tín ... theo nhau mọc lên. 

    Trong đình chợ còn thêm vài ba tủ kiếng bán mua vàng bạc như Kim Ty , Kim Phượng . Hàng vải hàng xén gia đình bác Định, bác Miễn ...  hàng ăn cùng kẹo đậu phụng nổi tiếng của vợ chồng chú thím Lý- Sâm . Lò heo ông Giáo , Ông Tình bà Cẩm,  tiệm tạp hóa o Cháu , o Đồng, Chị Trà  con bác Miễn  v v...quanh đi quẩn lại cũng là bà con Cam Lộ -Gio linh không ai xa lạ. 

    Chỉ tiếc một điều một hai năm gì đó sau 1980 vắng bóng gánh cháo lòng O Nuôi mẹ thằng Châu. Phải công nhận o Nuôi nấu cháo lòng rất ngon, cháo không bao giờ rền như cháo hầm. Tô cháo thơm ngát mũi, khách đi qua không thể nào không ghé. Nhà thằng Châu con trai độc nhất của O cũng nhờ gánh cháo o bán trong mái nhà tranh cạnh chợ. O nhờ gánh cháo mà nuôi đứa con trai cưng của o đầy đủ không thua ai. Người viết về đây thì hàng "đột đột" -tiếng dân QT gọi về lu vại- của ông Hai Than cũng hết bán . Nhưng còn nghe thiên hạ kể trận lụt lớn 1977 lướt qua chợ làm lu vại của ông Hai Than bị vùi lấp gần hết. Trận lụt lớn thiệt! lấp trường Cam Phú  một nửa, cát cuốn tràn đầy các phòng học . Cho đến 1980 xe máy xúc trên huyện về mới cào ra hết cát . Số cát cào ra này tạo quanh trường y như một con đê che chở một doanh trại hay pháo đài nào đó. 
         Phòng khám bệnh BS Anh nằm ngay chân dốc Tân Sơn đổ về

Ông Hai Than mua bán vậy cũng có tiền nuôi con học lên bác sĩ . Bác sĩ Anh sau này về phục vụ bà con tại đây. Phòng khám bệnh nằm ngay chân dốc Tân Sơn đổ về, sau lưng là đồi cát trắng hiu quạnh. Một thời bà con trên đồi Tân Sơn và ngay cả Cam Bình mắc chứng "sán móc" quá nhiều nên phòng khám bs Anh làm không hết việc. Người viết không thể nào quên thời này ra đường gặp rất đông người dân có màu da vàng vọt  vị cái bệnh sán quái ác .


biển Cam Bình ngày nay 2014 -vẫn những chiếc thúng , đánh vét cá ven bờ kiếm sống qua ngày

    
    Khoảng cuối thập niên 1980 những chiếc xe mô tô Minsk của Liên xô ra đời tạo thêm công ăn việc làm cho đàn ông trong thôn. Nghề chạy xe ôm khá tiện lợi. Ai cần đi đâu gấp như ra bến xe hai ba giờ sáng: có xe ôm! Ai cần ra Quốc Lộ 1 đón xe ra Trung:có xe ôm! Thậm chí ai bệnh nặng cấp kỳ cũng cần xe ôm! Mấy anh xe ôm chở khách đằng sau, hai chân chống hai bên lội chiếc xe Minsk qua mấy ổ gà đầy nước...Nghề chạy xe ôm tuy cực nhưng cũng đỡ vất vả hơn khi đứng cuốc giữa cánh đồng bạc màu cho ít hoa lợi. Mùa rảnh, rõ ràng chiếc xe ôm đã giúp cho mấy anh nông dân kiếm thêm lợi tức.

 


              






Thế mà...
   Dù hiện nay chợ Cam Bình đã thuộc xã mới có tên là Tân Phước nhưng không khá hơn chút nào, đó là vì sao ? Cái chợ quê như người viết đã kể trên không phải không gặp chuyện bất ngờ! Kinh tế đổi mới thêm, đường sá thông thuơng hơn. Con đường đất năm xưa giờ đã trải nhựa đến tận Bình Châu. Phương tiện dồi dào, đi đứng thuận lợi, nhấc điện thoại lên sẽ có xe đò chờ ngoài ngõ. Nhất là đời sống người dân Cam Bình nay đã lên cao. Nhà nào cũng có phương tiện xe máy " rù" một xíu là đến ngay chợ La Gi. Ngôi chợ quê nay dưng ế ẩm? đông người bán, ít kẻ mua?  Chợ dần hồi thu nhỏ không giống như cái thời mới bắt đầu ..."đổi mới ". 

thỉnh thoảng có khách xa về thăm biển Cam Bình nhưng chưa giúp gì kinh tế CAm BÌnh lên cao?
                        biển Cam Bình hôm nay   Những con đường ra biển nay bỗng thông thuơng, trải nhựa, xe hơi chạy được. Quán xá, chợ đò, mở thêm sát biển cho khách hóng mát, du lịch. Nhà nghỉ , quán trọ, thi nhau mọc lên. Tất cả cộng lại khiến ngôi chợ phía trong  càng lúc càng khó làm ăn! Đã thế, nhà cửa thi nhau xây lớn thêm xung quanh khiến nó  càng  "co rúm " lại giữa, khó nhìn ra ! 

Con đường trải nhựa chạy suốt từ La Gi một mạch vào tận Bà Tô, Bà Rịa cho đến Sài gòn. Những chiếc xe hàng , xe khách nhiều kiểu chạy qua càng lúc càng nhiều. Cái đáng nói chẳng chiếc xe nào cần thiết phải dừng lại trước cái chợ  này. chợ Cam Bình ngày nay khách vắng dần nên càng lúc càng thu hẹp lại. Chỗ mua bán trao đổi nông phẩm rộng trước chợ nay chẳng còn. Lác đác một hai anh xe ôm uể oải ngồi đợi khách( hình Trần thiên Khải , Cam Bình )


                                     cảnh chợ chiều 

 cho đến hôm nay ngôi chợ Cam Bình đã thu nhỏ lại khuất hẳn sau hai cây phượng vĩ, khó nhìn ra, thật đúng hình ảnh một cảnh "chợ chiều "
[hình Thanh Nho 10/2014]
chiếc xe bò của người dân xóm Chuối Cam Bình 1998 (nhà anh chị Nguyễn B phim Thanh Nho)


                             THAY CHO PHẦN KẾT 

BAO LỚP TRẺ RA ĐI nay xa Cam Bình 

  Những lớp người trẻ sinh ra trên mảnh đất Cam Bình, lớn lên từ nhành lúa bạc màu củ khoai củ sắn nơi miền thôn cũ, giờ khôn lớn học hành đổ đạt phải ra đi tìm đất sống. Những lớp bán buôn xưa giờ không còn tìm đâu ra lợi tức nơi vùng đất cũ. Bao kẻ ra đi. Hôm nay Cam Bình quạnh vắng bên sóng biển ngàn năm rì rào vỗ nhịp. Cam bình chỉ còn lại lớp tuổi già nua, ngồi ngóng tin con ra đi tìm đời mới, đầy đủ hơn, tại chốn thị thành . 
Hai chữ Cam Bình dần dà chắc sẽ theo lớp người xưa đi vào dĩ vãng, một thời lem luốc củi than. Hình bóng bao cánh rừng bạt ngàn cùng lớp người xưa nay đã khuất hẳn vào trong quá khứ cũng như tiếng rìu tiếng rựa một thời...
  Ngót nghét hai mươi năm người viết mới có dịp về thăm lại thôn xưa.  Chợ Cam Bình nay không còn khách. Các o, các mệ, bán hàng hai mươi năm trước, nay theo nhau khuất bóng. Ai còn tại thế như mẹ tôi nay trí óc đã hao mòn mụ mẫm lúc nhớ lúc quên? Cảnh CHỢ CHIỀU trong bao ngày tần tảo mà mẹ tôi nhọc nhằn một nắng hai sương nuôi sống gia đình...lớp lớp mồ hôi nhọc nhằn trên đôi vai gầy guộc của mẹ. Ngày ngày quẩy gánh ra chợ mẹ tôi mong sao kiếm sống qua ngày...
Thế gian 'vật đổi sao dời', đó là lẽ thuờng của cuộc đời.  Tuy thế trong lòng người viết vẫn bồi hồi mỗi khi nhớ về ngày tháng cũ. Hình ảnh cái chợ quê mang hai chữ "CAM BÌNH"-Cam Lộ, Bình Long-  người dân Quảng trị "mang theo quê huơng" khi ra đi KHAI HOANG LẬP ẤP. 
   Mong sao mai kia, dù ngôi chợ đó có bị xóa đi dấu tích, vẫn còn người nhắc lại CHỢ CAM BÌNH  cho thế hệ cháu con . 
mong thay !





chốn an nghỉ cuối cùng của lưu dân Quảng trị tại Cam Bình là đây , nghĩa địa Cam Bình trên cái rẫy có tên "chồm Chồm"
[hình : em trai tác giả đang đứng tại lăng thân phụ 16/10/2014 ]



đinh hoa lu

9/4/2014 

[1]: theo thu thập vài nguồn tin cũng như theo trí nhớ tác giả thì trước phong trào di dân lập ấp cho đồng bào chiến nạn QT từ Đà Nẵng vào Bình Tuy vào năm 1973 thì đã có một số đồng bào Bình Long chạy giặc vào năm 1972 về sinh sống ở vùng Động Đền Hàm Tân này rồi. Khi người Cam Lộ vào dịnh cư tại Động Đền mới lập nên vùng này gọi là Cam Bình thuộc xã Tân Mỹ thuộc Huyện Hàm Tân. Cam BÌnh là ghép tên từ CAm Lộ và Bình Long thì đúng hơn.  năm 1980 tác giả ra trại về lại CAm Bình còn quen một số bạn và gia đình người Bình Long còn làm nông ở thôn 6 Tân Mỹ này. Địa phận xã Tân Mỹ từ dốc Thanh Linh cho đến dốc chợ Trung Giang . Sau này xã Tân Mỹ xóa tên Cam Bình thuộc Tân Thiện và một phần trên dốc thuộc về xã Sơn Mỹ.


 HÌNH ngày cưới của tác giả 1/1/1983 ngày đi họ qua nhà gái có người bạn cùng xóm tên Xiềng người Bình Long (đi vào gần cuối hàng bận sơ mi trắng ) còn tất cả còn lại trừ chú rễ đều là người Cam lộ. 
từ trước lui sau: chú Nguyễn văn Lý Cam lộ, Tác giả hay chú rễ, Dũng phụ rễ con bác Lê Mãng gốc Cam lộ,phụ rễ Nguyễn Hiến gốc Gio Linh, anh Nguyễn Thuận Cam Lộ, bạn Xiềng người Bình Long  

        CAM BÌNH- MỘT TIẾNG QUÊ ĐÃ MẤT

CHỢ XÂY LẠI  26/4 /2018 VỚI CÁI TÊN MỚI LÀ CHỢ TÂN PHƯỚC 
TIẾC CHI HAI CHỮ "CAM BÌNH"?!

    THIÊN HẠ ĐỔI DỜI, SỐ PHẬN CHỢ CAM BÌNH tuy đổi tên là Tân Phước nhưng may thay vẫn còn nằm trên nền đất cũ.  Chợ Tân Phước Chợ Cam Bình thay đổi tên cũng như bao di tích nào đó từ thời trước đến nay cũng chung số phận.  Tên gọi một địa danh có khi nó lại kèm theo một di chứng LỊCH SỬ truyền khẩu cho muôn đời con cháu mai sau. Thói đời THAY CŨ ĐỔI MỚI là chuyện thường tình. Nhưng có khi cháu con lại vô tâm đánh mất đi một dấu ấn của cha ông để những ngày sau mất công tìm lại. 

TRĂM NĂM BIA ĐÁ THÌ MÒN: đúng vậy cung vàng điện ngọc hay xây dựng công phu nào đó cũng bị thời gian phế bỏ 
nhưng...
NGÀN NĂM BIA MIỆNG VẪN CÒN TRƠ TRƠ: chính đây là cái thâm ý của tổ tiên chúng ta bao đời dặn dò con cháu rằng: chỉ có BIA MIỆNG Ý NGHĨA chính đó là truyền khẩu muôn đời như câu ca dao điệu hò của mẹ nó vẫn TRƯỜNG TỒN MÃI MÃI VỚI THỜI GIAN.
Thế ta tiếc chi hai tiếng CAM BÌNH sao thế nhân nỡ lòng XÓA MẤT? Đề cho con cháu chúng ta đời sau và đời sau nữa chẳng còn gì một hình ành ngày xưa NGÀY KHAI HOANG LẬP ẤP có một cảnh CHỢ CHIỀU MANG HAI CHỮ THÂN YÊU CAM BÌNH CỦA ÔNG BÀ NGÀY TRƯỚC

TIẾC LẮM THAY!

ĐHL EDITION MÙA COVID-VŨ HÁN USA 14/8/2020

chợ cũ năm 2018 đang bị đập phá để xây mới



hình ảnh cuối cùng cái đình chợ CAM BÌNH sau bao năm che chở nắng mưa cho người dân Quảng Trị 




SUY GẪM VÀI NGỤ NGÔN 1

  HAI KẺ BỘ HÀNH DƯỚI GỐC CÂY TIÊU HUYỀN Có hai kẻ Bộ Hành đang đi giữa trưa nắng gắt nên phải tìm một bóng mát nào đó trú thân. Nằm dưới bó...