Friday, April 25, 2025

NGUYÊN NHÂN SỤP ĐỔ của VNCH QUA CON MẮT CỦA MỘT SĨ QUAN TRẺ

 

Quảng Trị và tuyến Mỹ Chánh mất ngày 24/3/1975  (tác giả ĐHL trong toán tù binh, bận đồ 4 túi và đội nón lưỡi trai đi giữa,  trước người đội nón lá) xin xem phim dưới

PHIM MIỀN BẮC

Quảng Trị thất thủ 24/3/1975

xin bấm vào link dưới...

https://www.youtube.com/watch?v=yJEUc5f1z48


chào bạn đọc

Từ ngày 23/3/1975 tôi và 16 chiến hữu khác thuộc đại đội 2/tiểu đoàn 105 Địa Phương Quân Tiểu Khu Quảng Trị bị bắt làm tù binh tại Làng Trạch Phổ, Ưu Điểm bên dòng sông Mỹ Chánh khi toàn bộ đại đội bị bắc quân vượt sông đột kích, trận đánh trong phạm vi xã Hải Văn, khoảng 2 giờ chiều trong ngày.


Ngày 24/3/1975 17 người chúng tôi đã bị đưa ra thôn An Lạc, mé cầu Đông Hà ngó qua là căn cứ hải quân miền bắc cũng là điểm hải quân VNCH chân cầu Đông Hà cũ. 


Tưởng cũng cần nhắc lại từ bờ bắc sông Thạch Hãn là thuộc quyền kiểm soát của phe miền bắc sau Ngưng Bắn 1973 cho đến sau này...

cảnh kẹt đèo Hải Vân lúc di tản ngày 23/3/1975

1 xà lan từ Thuận AN cập Đà Nẵng rồi Đà Nẵng cũng mất ngày 29/3/1975




Từ ngày 24 tháng 3 chúng tôi nghe tin Thuận An càng lúc càng rối loạn do đèo Hải Vân bị chận, Huế không chạy vào được Đà Nẵng và phải tràn về Thuận An và tình hình bãi biển Thuận An rối đến nỗi xà lan không cặp vào được bờ do các lực lượng bắn nhau giành tàu...hết sức hỗn loạn


Chúng tôi nghe tin Huế mất vào ngày 26/3/1975 và tiếp đến Đà Nẵng mất ngày 29/3/1975 từ lúc còn bị giam tại thôn An Lạc những ngày đầu.


Huế mất, tù binh bị đưa ra Đông hà càng đông. Chúng tôi được đưa lui về tạm trú tại trường tiểu học Lai Phước sát cạnh con sông Lai Phước. Khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 chúng tôi được đưa lên Cam Lộ và qua Cùa để lập trại tạm tại thung lũng Ba Lòng cho đến ngày 30 tháng 4/1975 thì nghe tin Sài Gòn có lệnh ĐẦU HÀNG 


CUỐN PHIM COI NHƯ CHẤM DỨT !


Hơn cả ngàn người tù tại thung lũng Ba Lòng, Hàng ngày đi cùi gạo mục về cho tù ăn chúng tôi được thấy những kho dự trữ gạo tại Ba Lòng có thể gọi là chiến khu nó quá lớn và chiến lược. Gạo thay bao nhiều lần do dự trữ quá lâu, cức chuột dẫy đầy được Thượng Cộng canh giữ hàng ngày giờ cho tù binh ăn. Mấy cán bộ VC cho chúng tôi biết sau khi SG đầu hàng rằng Chiến Dịch HCM dự trù 2 năm mới thắng được VNCH đó là dự tính qua sức mạnh của VNCH nhưng không ngờ CHIẾN DỊCH NÀY TÍNH ĐẾN 30/4/1975 MỚI 55 NGÀY LÀ THÀNH CÔNG ngoài dự tính?


Miền Bắc dự trù 2 năm CÓ THỂ đúng, đó là theo thực lực còn lại của VNCH. Nhưng từ sự rút quân ào ạt đưa đến tình trạng mất tinh thần kèm theo cảnh đồng bào di tản hỗn loạn chính là "món quà" ngoài dự tính cho Bắc Quân. Họ nói không sai, chính Đại Tướng Cao văn Viên trong cuốn HỒI KÝ của ông cũng viết lên một nội dung như thế. 


Mỹ bỏ VNCH, tinh thần chiến đấu của VNCH đã giảm sút mạnh cộng thêm lệnh rút quân ào ào khiến tinh thần sút giảm như ván cờ domino sụp đổ dây chuyền. Đồng bào di tản, bám theo nam quân chính đây là cú giáng bên trong làm mất hết tinh thần của VNCH là một thực tế rõ ràng nhất.


lịnh rút quân đoàn II đã làm cho binh lực của một quân khu mất trắng trong vài ngày
đây là ý tưởng của TT Nguyễn văn Thiệu khi họp với Tướng Cao văn Viên:
"Tổng thống Thiệu phác họa sơ những vùng ông nghĩ là quan trọng, gồm Vùng III và IV, miền duyên hải và thềm lục địa. Một vài phần đất quan trọng đang bị cộng sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi giá. Những vùng đất cần chiếm lại là nơi đông dân ,trù phú có giá trị về lâm sản, nông sản và kỹ nghệ, nhất là miền duyên hải, nơi thềm lục địa vừa được khám phá ra dầu hỏa. Cuối cùng, vùng đất mà chúng ta không thể nào để mất là Saigon, các tỉnh lân cận, và đồng bằng sông Cửu Long..." (Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 125-136.)


    Bắc quân không tốn xương máu nhưng đã phá tan cả Quân Đoàn II trên đường di tản hầu như toàn bộ cũng từ tinh thần hoảng loạn và lệnh rút quân vô trách nhiệm nói trên.

tại Quảng Trị các đơn vị Địa Phương Quân hi sinh nằm lại tại tuyến sông Ô Lâu để cho lực lượng tổng trừ bị như Sư Đoàn TQLC rút vào bảo vệ Sài Gòn nhưng thực tế chỉ là cảnh rút quân hỗn loạn tại Đà Nẵng trước khi thành phố này rơi vào tay CS ngày 29/3/1975




Di Tản và Di Tản, rút quân và rút quân cùng với làn sóng đồng bào miền nam hoảng loạn chạy trốn CS chính đây là nguyên cớ còn mạnh hơn cả quả bom nguyên tử khiến lực lượng VNCH bị tan hoang trong một thời gian ngắn. Đó là món quà khi không trên trời rơi xuống khiến miền Bắc tính toán 2 NĂM CHIẾN ĐẤU rút xuống còn 55 NGÀY


Dĩ nhiên từ Hà Nội,  Bộ Chính Trị CSVN nhìn cảnh hỗn độn quân dân VNCH trên bãi biển trên bến tàu trên đường đèo, quốc lộ  mắc kẹt ùn đống với nhau... họ sẽ 'rung đùi' đắc chí đó thôi.


Binh gia thắng bại lẽ thường. Những nhận xét về quân sự phải khách quan. Dù Mỹ có nhẫn tâm bỏ bạn VNCH nhưng nếu có tinh thần chiến đấu thì VNCH phải đánh tới 2 năm như lời cán bộ bắc quân từng thố lộ. 


Người viết tin thế. Người viết còn tin rằng trong chiến đấu TINH THẦN LÀ QUYẾT ĐỊNH

Những cảnh hỗn loạn tại Thuận An, tại Đà Nẵng...Quân Khu II, Bình Tuy Vũng Tàu  trên tàu hải quân khi cập bến Phú Quốc ...và rất nhiều nữa nói lên điều đó...TINH THẦN LÀ QUYẾT ĐỊNH


Nói thế không phải là cho rằng VNCH sẽ còn nếu có tinh thần. Tương quan lực lượng với con mắt khách quan thì trước sau gì miền bắc cũng nuốt trọn miền nam, có điều cuộc chiến sẽ kéo dài hơn, chết chóc hơn...


BẠN ĐỪNG CHO RẰNG " 7 TÊN VC ĐEO CÀNH ĐU ĐỦ KHÔNG GÃY"? 

ngày trước chỉ là tuyên truyền thôi, sự thật YỂM TRỢ TIẾP VẬN của BẮC QUÂN RẤT MẠNH VÀ LÂU DÀI 

Bắc quân chỉ đói lúc bị lạc hay mất liên lạc với hậu phương tác giả cho rằng khi chứng kiến kho dự trữ quân nhu yểm trợ cùng phương tiện quân xa chưa nói đến vũ khí chúng ta sẽ so sánh với Hoa Kỳ một đồng minh vừa ép bức vừa keo kiệt hơn khối CS


 CS Quốc tế đứng đầu là Nga và Trung Cộng đã viện trợ "tận răng" hay nói khác đi miền bắc từng được Nga Tàu và mười bốn nước đàn em khác nói theo thành ngữ quốc tế là "trang bị tận răng" (Être armé jusqu’aux dents!) Cho đến lúc Hà Nội toàn thắng chiếm Sài Gòn rồi thế mà nguồn viện trợ của Bắc Kinh vẫn còn đó là chuẩn bị cho Hà Nội áo quần tù binh, ngay cả quai dép lốp Bình trị thiên cũng có loại quai của Bắc Kinh láng hơn dai hơn ...


Những ngày ở tù tại trại 4 Ái Tử thuộc đoàn 74 CS miền bắc coi tù sau 21/5/1975 khi tù binh chưa giao cho Công An CS, tù binh được dẫn đi lĩnh thực phẩm về cho trại 4, tác giả được chứng kiến và lĩnh gánh về trại những thực phẩm chiến lược mà Bắc Kinh viện trợ "tận răng" cho miền bắc như sau:


Dĩ nhiên khối thực phẩm này đã quá hạn và hư thối mới đem cho tù ăn:


tất cả đều có nhản đề CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA MÀU Ô LIU

-Lương khô 701 (thường) mỗi phong 4 miếng gốm bột dinh dưỡng và phụ gia ép thành miếng (đã có giòi bò lúc nhúc do dự trữ lâu ngày cũng như gạo tại Ba Lòng tù ăn gạo dự trữ cứt chuột màu đen lốn nhốn như đậu đen vậy nhưng tù vẫn ăn do ĐÓI )

-Lương Khô 702 gồm 4 miếng dinh dưỡng và đóng phong ở giữa có miếng vitanmin tăng lực. 702 này nghe nói dành cho đặc công

-đường trắng tinh khôi 200 viên/ 1 gói vuông nặng 500 GAM

-Ruốc thịt heo chà bông đóng trong thùng thiếc màu ô liu

-Nước mắm đóng viên bằng viên kẹo, chỉ cần hòa nước nóng là có nước mắm dùng ngay

-Bột đậu xanh dinh dưỡng

-thịt lợn hộp 500 gam 

-Gạo Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, Gạo đồ

-Mỡ nước thùng 10 kg vuông sơn màu ô liu

- Bột ngọt (mỳ chính) của Trung Cộng

-...từ vũ khí tới thực phẩm, đàn anh Bắc Kinh lo cho miền bắc rõ ràng là "tận răng" dù lính bắc việt không lương nhưng yểm trợ họ dồi dào và dư thừa chứ không thiếu

Tưởng chúng ta cần nhắc lại-Thời gian Hoa Kỳ thả mìn ngư lôi phong tỏa cảng Hải Phòng sau 1972  Quảng Trị có thời kỳ gạo đồ từ miền bắc thả theo dòng nước trôi vào nam rất nhiều, gạo được bọc trong nylon dày người trong nam làm áo mưa được


còn nhiều thứ nữa nhưng tác giả chỉ nhớ chừng đó

Chính ngay sau này người viết cũng biết rằng Bắc Kinh còn viện trợ cho Hà Nội áo quần tù (sọc đỏ) tốt và lâu rách hơn áo quần tù sau này làm tại Hải Phòng sọc xanh sọc trắng ở giữa, quần 1 ống nửa xanh nửa trắng, ống kia nửa trắng nửa xanh)

Tất cả nằm trong các kho chứa sau cổng Tư Lệnh Sư Đoàn 3 cũ đã hư nát do đạn pháo tại căn cứ Ái Tử cũ sau lưng chùa Sắc Tứ tịnh Quang Tự

Đó là chưa kể xe quân vận sức mạnh chẳng thua xe molotova của Nga. Khi ở tù tại Như xuân Thanh Hóa xe Trung CỘng chạy ào ào qua mấy đám rừng vừa chặt hạ, chở gỗ ào ào về cho Quân Khu của họ. 

Đồng minh của miền bắc viện trợ ào ạt và kiên trì từ miếng ăn cho đến đầu hỏa tiễn SAM cùng phòng không quân vận , xe chạy đếm không hết trên đường. 

Một ngày khoảng cuối 1975 theo toán tù binh đi lên Cây Số 4 thuộc QL 9, chợ Đông Hà đi lên 4 cây số ...tác giả từng chứng kiến tại Cây Số 4 đó Tiếp Vận miền Bắc theo đường 9 về đây chất đống quân nhu chẳng khác chi Phú Bài hay Long Bình...Đây là những gì chính mắt người viết chứng kiến.


ngày 20 tháng 6 năm 1974 một chiếc tàu quân vận miền bắc bị Lữ Đoàn 258 TQLC VNCH bắn chìm do đi quá Cửa Việt vào tân Mỹ Thủy. Tàu này chở toàn thịt lợn hộp 500 gam viết ở trên do Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sản xuất. Chiến lợi phẩm từ con tàu này có phát cho các đơn vị ĐPQ đóng tại Động Ông Do, trung đội tác giả có nhận được mỗi tiểu đội 2 hộp thịt lợn này


CÒN HOA KỲ THÌ SAO?


Một bên là miền nam chiến đấu trong cô độc và người bạn Hoa Kỳ thiếu thủy chung cùng quan niệm hết sức thực dụng. Quân lực VNCH đã thiếu ít quân số lại có trách nhiệm nặng nề là GIỮ DÂN GIỮ ĐẤT đây là trách vụ đầy tính chiến lược và vô cùng khó khăn. Nhưng chính sách lại thay đổi xoành xoạch theo sự áp chế từ viện trợ Mỹ và chính sách lại phán quyết từ Bạch Ốc cách xa vạn dặm. 

Trong hồi ký của cố đại tướng Cao văn Viên tổng tham mưu trưởng QLVNCH, ông viết...

           Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách          cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời VN, tổng thống Thiệu biết ngay  VNCH không còn hi vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn—và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được...

(Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của VNCH. Nhà Sách Văn Bút 2003, trang 125-136.)


Chúng ta lại phải khách quan nhắc lại chính quyền VNCH thiếu ổn định và rạn vỡ đau đớn nhất là vụ đảo chính 1/11/1963 đã giết đi hai nhà chính sách là TT Ngô đình Diệm và bào đệ là Ngô đình Nhu. Từ đó chính quyền VNCH càng lúc càng rối...thử hỏi chính sách làm sao nhất quán? Ấp Chiến Lược tan vỡ, Bình định Nông Thôn ì ạch làm cho có, Chiến Tranh Chính trị hay Tâm Lý Chiến của Bộ Tổng Tham Mưu chỉ hay trên giấy tờ mà thôi, QLVNCH giao trách nhiệm "tâm lý chiến" cho sĩ quan đại đội phó kiêm nhiệm nhưng phần nhiều không có thực lực hay thực chất về "chiến tranh chính trị" ngoài có năng khiếu cá nhân "đờn hay hát hay" của người đại đội phó thôi? Bình định an dân, tuyên truyền chính sách là DÂN VỤ chứ không phải là trách vụ hay sở trường nhà binh, nhưng rủi thay sau ngày Đảo Chính 1/11/1963 tình hình chính trị càng lúc càng bết bát phải giao luôn cho quân đội kiêm nhiệm (ngày 19/6) chính đây là nhược điểm chính sách quá lớn khó bề hàn gắn nếu chúng ta đa phần quan niệm nhà binh như "thiên lôi sai đâu đánh đó"?


Nội tuyến và khuynh tả gián điệp nằm vùng với nhiều, tôn giáo, sinh viên phản chiến... phong trào thân cận với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) con đẻ hay nước cờ của Bộ Chính Trị CSVN hay HCM chính đây cũng là những nhát dao đâm sau lưng VNCH làm Quân Lực VNCH vừa chiến đầu giữ dân giữ đất vừa bị các vết đâm vào lưng chí mạng?


Trong Binh Cơ chuyện thắng thua phải luận tới hai thế đó là CÔNG và THỦ


VNCH do vừa ít ỏi sức lực vừa bị người Mỹ chèn ép cai quản qua vai trò viện trợ lại vừa giữ dân và giữ đất do vậy chỉ còn ở thế PHÒNG NGỰ hay là THẾ THỦ. Thế thủ lâu ngày, chỉ biết đưa lưng cho người ta đấm, bị đấm đâu thì đỡ đó sẽ lâm vào thế BỊ ĐỘNG 

Quân sự muốn thắng phải nằm ở thế THƯỢNG PHONG tức là THẾ CÔNG 

Quân miền bắc qua con đường Mòn HCM tại  Lào và Cambodge ào ạt vào nam với cái mỹ từ là 'Giải Phóng' nhưng đây đích thực là cuộc trường chinh chiến đấu xâm lăng cướp đất VNCH. Miền bắc đã đông đảo quân số do nghĩa vụ không kể độ tuổi, khi ra đi vào nam là 'dũng sĩ diệt Mỹ, chết thì là Liệt Sĩ' nhưng không có trách nhiệm giữ dân giữ đất gì?

Đánh chiếm được vùng nào thì hô hào là GIẢI PHÓNG.  Khi thấy không thắng thì họ rút đi không có trách nhiệm nào về giữ dân giữ đất và CS miền bắc vẫn biết rằng có cơ hội thì họ đánh tiếp...


Bắc quân và ngay cả MTGPMN con đẻ của họ, hoàn toàn không có trách nhiệm, "ăn lùa thua thì ...chạy" chạy rồi chờ tìm cơ hội là đột kích, phục kích cùng gài mìn, tấn công nhanh rút nhanh khiến cho lực lượng VNCH càng bất ổn càng dàn quân mỏng thêm từ nhu cầu đồn bót càng nhiều nên càng hao tâm tổn sức thêm?


Một người chuyên lo rình mò đánh phá, không có chiến tuyến và vùng lãnh thổ rõ ràng, kiểu du kích chiến thì VNCH có mạnh gì cũng hao tâm tổn tướng cùng rối loạn. 


Quân đội Hoa Kỳ tuy ào ạt vào VN  có khi lên tới nửa triệu quân, chưa kể đồng minh;  nhưng đối với vấn đề chiến đấu chống lại loại hình  chiến tranh Du Kích thì dần hồi hao binh tổn tướng với những tổn thất hao mòn. Quân đội Mỹ là quân đội nhà giàu, đầy cường lực và tinh xảo chỉ hợp với  chiến tranh Quy Mô hơn là loại hình chiến tranh Du Kích và Trường Kỳ 


Đây là lý do khiến 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ hi sinh vô ích và Mỹ phải ép cho được TT Nguyễn văn Thiệu ký cho được thỏa ước Paris 27/1/1973 để đưa quân về nước. Nhưng ván cờ đã lỡ, VNCH phải cay đắng ký một thỏa ước hoàn toàn bất lợi.


Từ thụ động trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền nam lại CÀNG THỤ ĐỘNG HƠN KHI THỎA THUẬN PARIS KÝ KẾT VỚI TÌNH TRẠNG HAI DA BEO, XÔI ĐẬU TRONG MỘT CUỘC CHIẾN ĐÃ THẤT THẾ CHIẾN LƯỢC LẠI CÀNG BẤT LỢI HƠN BAO GIỜ HẾT


Kissinger và Lê đức Thọ sau khi ký Thỏa Ước Ba Lê

Thỏa Ước Paris 27/1/1973 là BẢN ÁN TỬ HÌNH CHO CHÍNH THỂ VNCH mà thôi.

Từ 1973 đến 1975 là hai năm cuối cùng cho một miền nam xây dựng chế độ Cộng Hòa và Thể Chế Dân Chủ. Với Hai Mươi Năm Chiến đấu phải công bằng nhận xét rằng quân nhân cán chính VNCH đã chiến đấu kiên cường mới có được một thời gian trị vì hai thập kỷ. 


Miền bắc có quyền xây dựng chế độ cộng sản, miền nam cũng có quyền xây dựng chế độ Cộng Hòa. VNCH từng được Quốc tế công nhận là thành viện LHQ. Đây là Dân Quyền và Nhân Quyền khi người dân cầm lá phiếu trên tay và bầu cử là một quyền lợi của dân quyền Do "Ai Cũng Có quyền SỐng và quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc ..." (Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền LHQ)

.

Lấy danh nghĩa là "giải phóng miền nam", đảng CSVN đã cố che giấu đi một chiến lược XÂM LĂNG CƯỚP ĐẤT thôi. Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, cuộc xâm lăng nào mà chẳng có những MỸ TỪ CAO CẢ


VNCH mất đi cũng do lòng tham chiếm đất hay xâm lăng từ bắc phương tràn xuống. Tiếc cho lòng người, ngu muội hay quá cuồng tín cá nhân vào Hồ chí Minh cùng chủ thuyết CS. Cho tới giờ này họ vẫn một mực cho rằng VNCH là 'ngụy quyền bán nước'? họ không biết rằng VNCH- một chính thể mất đi do LÒNG THAM XÂM LẤN CỦA ĐẢNG CSVN mà thôi?


Sự thật ngày nay, ai là kẻ trị vị trên đỉnh cao quyền lực tại quê hương VN? trên 100 triệu dân có thực sự có quyền tự quyết, tay cầm lá phiếu cùng quyền bầu cử tự do để chọn lựa thể chế chính trị hay quyền lợi cho mình? Tất cả quyền lực cùng quyền lợi hay tài nguyên đất nước VN hiện tại đều nằm trong quyền Sinh Sát Ban Cho từ mấy triệu đảng viên CSVN mà đứng đầu là Bộ Chính trị CSVN.


30 tháng Tư năm nay, chúng ta cùng nhau tưởng niệm 50 năm ngày mất VNCH và sự thực nào cùng là SỰ THẬT. Quan điểm của tôi có thể là thiểu số hay lạc lõng nhưng người viết vẫn khẳng định:


SÀI GÒN THỦ ĐÔ VNCH SỤP ĐỔ DO VNCH LÀ NẠN NHÂN CỦA MỘT CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LẤN  CỦA CSVN TỪ MIỀN BẮC CHIẾM MÀ THÔI./.


ĐHL 25/4/2025


Thursday, April 24, 2025

NHỚ THUỞ XE THAN


XE THAN- MỘT THỜI HỪNG HỰC NÓNG


`      Mỗi độ xuân về tết đến đó là lúc mọi người lo chạy "đáo đôn" để làm sao có mấy ngày ăn tết đầy đủ. Công nhân về quê, sinh viên nghỉ học...ai cũng về quê ăn tết bù lại bao ngày làm việc quần quật hay miệt mài học tập ở chốn thành đô. 

    Hai chữ VỀ QUÊ gắn liền với phương tiện giao thông tức là xe cộ. Nói gì thì nói, rõ ràng phương tiện hôm nay quá ư đầy đủ, dư dật và hiện đại hơn hẳn ngày xưa. Thời nay,  thừa cung hơn cầu, nhất là cái chuyện đi lại đó đây thật quá dễ dàng thoải mái. Bà con khỏi cần đưa tay nhấc cái máy điện thoại như mấy năm trước, mà chỉ cần 'bấm chọt' vào cái iphone, chút chi thì có chiếc xe đời mới tới ngay trước nhà đón mình. Nếu phải tới bến xe thì chẳng cần chen chúc mua vé như xưa, lại còn ngồi thoải mái trên hàng ghế nệm êm ru...chưa kể đến máy bay, một hình ảnh bà con mình ngày xưa làm sao nghĩ tới? Nhưng thời này, máy bay bay quốc nội, quốc ngoại đầy đủ toàn là "phản lực" mới ngon!



    Về quê ăn tết, nói chung phương tiện đi lại lúc này thật quá đầy đủ. Càng đầy đủ chúng ta lại càng thương về thời gian mấy thập niên trước, người mình gọi là 'mồ ma bao cấp'. Năm tháng đó, bà con mình mỗi khi nhắc tới hai chữ ĐI LẠI ai cũng rùng mình. Tìm ra chiếc xe đò di chuyển thật là chuyện vạn bất đắc dĩ . Phải có công chuyện quan trọng mới dấn thân đi tới bến xe. 

             MỘT THỜI TEM PHIẾU:   o ơi đến phiên tui mà o?

Ngày đó, ba chữ Đi Du Lịch, quả thật là thứ hàng "xa xỉ" chẳng ai dám mó vào hay chưa bao giờ nghĩ tới? Ai đâu ở đó, ngoại trừ cán bộ hay giới "đi buôn" có đồng ra đồng vô. Một thời "bao cấp" đồng nghĩa với không biết bao nhiêu cái trạm "quản lý thị trường" mọc lên do "ngăn sông cấm chợ" mọi nhu cầu đều hiếm làm sao? từ lon gạo, cục đường tới miếng thịt, lít dầu ...đều hiếm hoi thiếu thốn. Cái thời "thủ kho to hơn thủ trưởng" thì  người dân phải biết "luồn lách" để sống cho qua những ngày "cơ khổ"...

    Thế hệ sinh sau có thể cho tác giả bài này "cường điệu" hay lắm "thở than, ta thán" đó chăng? Xin trả lời, không phải vậy.  Có thể các bậc cùng thời minh chứng cho điều nói trên.

Khổ ơi là khổ cho cái nạn MUA VÉ  xe?!









    Ba bốn giờ sáng, bà con mình đã chầu chực tại bến xe rồi. Trời mới tờ mờ chưa rõ mặt nhau thế mà mọi người bắt đầu chen nhau trước phòng bán vé. Nhưng chỉ vài ba người đầu thôi. Hết ưu tiên một, ưu tiên hai ...đến lượt bán cho dân thì ...

HẾT VÉ?!

hai chữ "hết vé" chẳng khác chi cái cảnh "vạn cổ sầu..." nhưng kia là sự thật, đó là nỗi buồn tủi, đợi mong của dân đen hay "bần cố nông thứ thiệt", họ từng nghểnh cổ ngóng chờ trước cái ô cửa bán vé và khuôn mặt lạnh lùng 'vô hồn vô cảm' của 'đồng chí bán vé' năm nào?!

    Cảnh bến xe khác với thời đó, đìu hiu trống vắng, chỉ có vài ba chiếc xe đò cũ kỹ đậu bến, nhưng tất cả phương tiện kia đã vào Hợp Tác Xe Khách. Hợp Tác thì có, nhưng nhiên liệu thiếu, xăng dầu thuộc loại "quý hiếm" tất nhiên thì phải chạy than.

Khen cho ai có "phát kiến thông minh" trở về với đầu thế kỷ 20 tạo ra chiếc xe "hỏa tiễn" hay xe "cải lùi" chiếc nào cũng phải dính theo tòn ten cái thùng than lủng lẳng phía sau. Tội cho ai đu sau, phải chịu cảnh nóng rát bên mình suốt đoạn đường khổ ải cùng chiếc xe ì ạch trên con đường "thiên lý"...


thời bao cấp, bến xe đìu hiu vắng vẻ do thiếu xe cộ
     Tội cho mấy chiếc xe thời trước 75 bắt đầu bị  'biên chế' vào 'chế độ CHẠY THAN'? Chủ xe vào Hợp Tác nếu sợ hư xe tổn máy, không Chạy Than thì chạy cái gì đây?

    Cả nước đi lên phấn đấu với mấy "Nghị Quyết Năm Năm" của ông Lê Duẫn, từ sắn khoai đến nước mắm cùng bao thứ khác đều nằm trong Nghị Quyết. Xăng nhớt cần gì? Biết bao nhiêu là rừng tha hồ ta "phang" hạ xuống đốt làm "THAN CHẠY MÁY"?

    Thương cho mấy chiếc xe than, 'cà rịch -cà tang' cố lết trên bao con đường thiên lý của quê hương mình. Thỉnh thoảng xe dừng, thằng lơ xe hấp tấp chạy xuống ruộng múc nước đổ lên cái thùng cao trên mui xe giúp làm mát máy. Xong, hắn lại chạy lui phía sau lấy cái que sắt dài xoi "thùng thục" vào cái thùng than nóng hừng hực phía sau. Nửa đường có khi chiếc xe bắt đầu có tiếng 'lục cà lục cục'- xe hết than. Thế là thằng lơ phải lo phận sự của mình. Mời bà con xuống xe cho hắn lấy cái bao than đang nhét dưới gầm.

            xe hư !  mời bà con xuống xe 


     Mặt người tài xế bắt đầu cau có, vừa nóng vừa phải đợi thằng lơ làm phận sự. Hắn là lơ xe, phải ì ạch kéo bao than lên lên mui, bỏ than vào thêm... Chiếc xe tiếp tục 'bò' trên con đường dài như 'thiên lý'. Dân mình chịu khổ quen rồi, chịu cực thêm một tí chẳng sao. Xe chạy được là mừng khấp khởi, trước sau chi bà con cũng về tới nhà. Mớ gạo nhét dưới gầm, o đi buôn ký cóp đem về cho gia đình. Chút quà từ thành phố, ông lão khư khư ôm trước ngực. Mấy ổ mỳ dài Sài Gòn, chốn quê ông làm chi có được.

    Đó là chuyến xe gặp may. Phần nhiều xe chạy than chỉ một thời gian ngắn là hư máy. Xe than hay nằm đường. Xe nằm đường thật khổ cho bà con mình. Vật vả đón cho được xe khác thì giá một phải trả thành hai họ mới cho đi. Ai không có tiền thì đành phải ngồi nhịn đói chờ chiếc xe đang sửa...không biết khi nào? có khi ở lại qua đêm không chừng?

    Kể chuyện "xe than" để mà thương cho bà con mình ngày đó. Ai phải bu (hay bám) phía sau, vừa mỏi tay vừa chịu đựng hơi nóng từ cái thùng than quái ác kia. Ôi xe than, ai mà không nhớ mãi một thời.


     Người viết lại miên man thương về hình ảnh cha mình. Có việc đi xa, Ông chuẩn bị bao thứ linh tinh từ chiều hôm trước. Sợ quên, người soạn sẵn mấy thứ trên cái bàn trà thấp, ọp ẹp hàng ngày- nào bình thuốc lào, nào cái ví giấy tờ, nào cái bị lác đựng mấy thứ cần dùng...

    Ba tôi dậy sớm từ hai, ba giờ sáng. Đó là lúc tiếng gà canh một, canh hai đầu thôn eo óc gáy, cũng là lúc có tiếng lao xao của đoàn người gánh than từ trên dốc Tân Sơn xuống. Người cha già vội vàng khăn gói đi ra con đường đất đỏ, rồi hoà nhập với đoàn người gánh than, cùng về bến xe tận nơi phố thị. Phải đi bộ hơn một tiếng đồng hồ, cha tôi mới về đến bến. Có mấy chiếc xe than đang im lìm 'ngủ' trong đêm. Trời hơi mờ sáng, chiếc xe phiên đầu 'thức dậy' đốt lò. Nó sẽ tiếp tục một ngày mới, 'cà rịch cà tang' chạy trên đường quê hương, giúp chở đám dân nghèo.

***








    Có thể thời này những thế hệ sinh sau 1975 chẳng bao giờ thấy và chẳng bao giờ có cơ hội để cảm nhận được thứ cảm giác của dân mình ngày xưa- một thời XE THAN. Thật vậy, con người thời nay  đang  hưởng sự thoải mái với xe cộ khi đi lại đó đây; đó là lúc dựa lưng vào thành ghế chiếc xe du lịch đời mới, có máy lạnh, chạy êm ru. Tệ lắm, là bấm gọi cái iphone sẽ có chiếc xe đời mới tới đỗ ngay tận cửa. Dù sao tác giả bài này vẫn hi vọng sẽ có một thoáng giây nào đó chúng ta sẽ nhớ lại một thời HỪNG HỰC XE THAN, gian nan trên con đường gió cát quê hương mà thoáng thương về hoài niệm cũ- một thuở xa rồi./.

bài viết của ĐHL edit ngày 24/4/2025  

30 tháng Tư nhớ CƠN ĐÓI CỦA NGƯỜI TÙ BINH TRONG RỪNG LIM HUYỆN NHƯ XUÂN TỈNH THANH HÓA

                                 YOUTUBE (audio) (đính chinh: tác giả là Đinh hoa Lư, không phải là Hai Hùng do người đọc ghi sai tên)



Khối CS thắng thì bắt phe Tự Do (QG) đi tù . Phe Tự Do thắng thì cả nước an vui, không trả thù.
Nước Đức thống nhất, CS Đông Đức không ai bị ở tù , bà Merkel gốc Đông Đức còn được bầu làm Thủ Tướng. Các nước Đông Âu cộng sản cũ cũng vậy, sau khi hết CS, không hề có trại tù cải tạo .CS và Tự Do khác nhau chỗ đó .

(Trích đoạn hồi ký của Bác Sĩ PHÙNG VĂN HẠNH)

 


    Huyện Như xuân-Tỉnh Thanh Hóa đầu năm  1978

   Giờ ăn trưa,  rừng vẫn còn nhả khói. Làn mưa xuân nhè nhẹ cùng cơn lạnh nơi miền núi cao.  Mưa xuân không đủ làm tắt nhiều đống lửa khổng lồ từ vô số gỗ cây đang bị khai hoang, đốt dọn. Trai, người tù binh, chậm rãi khều từng cục than từ đống lửa ra dùng nướng miếng bánh mỳ luộc, khẩu phần trưa cho mỗi người tù cải tạo tại đây.  Sau những giờ vật lộn với từng cây lim và trường mật khổng lồ Trai cùng các bạn tù khác, ai cũng mong đợi nhận khẩu phần trưa. Mỗi người sẽ có một miếng bánh mỳ luộc lớn non lòng bàn tay, dày na ná hơn một phân tây.  Miêu tả thì đơn giản nhưng lát bánh đó là cả một niềm mong đợi. Người nhận nhiệm vụ gánh bữa trưa ra cho toán làm rừng đang đặt gánh xuống. Anh khéo léo đặt thùng nước nấu với lá ngái rừng, đầu kia là một cái thúng đựng những lát bột mì luộc. Mỗi người sẽ có đúng một lát cho phần ăn trưa. Chẳng còn gì nữa, không thức ăn nào, chỉ ngần ấy như mọi bữa.

lá thư gia đình thời gian lao động khổ sai tại Lòng Hồ Sông Mực

      Trước khi nướng miếng bánh, anh cẩn thận lấy mũi rìu rạch từng ô vuông nho nhỏ, anh rạch cả hai mặt của miếng bánh mỳ đó. Vừa thong thả làm anh vừa tưởng tượng chiếc bánh đó sẽ phồng rộp lên, phơn phớt vàng dưới hơi nóng của lớp than hồng. Hình ảnh cám dỗ đó làm Trai phải nuốt nước bọt vài lần. Nhưng than phải trải mỏng thôi, nhiều than quá sẽ thiêu cháy miếng bánh quý giá kia mất. Trai vót từ thân cây lụi làm ra chiếc que xiên bánh. Rừng thật nhiều cây lụi. Quê anh, người Huế thường dùng lụi để làm nan cho loại quạt có tên là "quạt lụi". 

    Tiếng than nổ tí –tách, những đống gỗ rừng vẫn ngùn ngụt cháy. Tất cả cánh rừng lim này phải bị chặt hạ và đốt cháy thành bình địa. Nơi đây sẽ biến thành lòng hồ mênh mông. Công trình này được gọi là ‘Công Trường Giải Phóng Lòng Hồ Sông Mực" nó sẽ đem nước về huyện Nông Cống, Tỉnh Gia cùng các miệt đồng bằng thuộc tỉnh Thanh hóa. Rừng mênh mông, đa số là thứ gỗ lim cứng như thép nguội mà xưa kia danh tướng Ngô Quyền đã dùng đóng cọc dưới lòng sông Bạch đằng và đã phá tan tành quân xâm lăng Nam Hán. Giờ thì những cánh rừng lịch sử và quý báu này đang bị phá hủy một cách  tàn khốc. 
   Giờ người tù tiếp tục trở hai mặt của miếng bánh trên mặt than, tay của anh đều đặn đưa miếng bánh qua lại, mềm mại chẳng khác gì bàn tay của một người "vũ nữ lành nghề". Thật ra miếng bánh đã vàng tới và thơm lắm rồi. Thế mà lạ, người tù chưa muốn ăn ngay. Tâm trạng anh trước miếng ăn, đó là ý nghĩ lạ lùng chẳng khác chi lo sợ mất đi "một vật báu " nào đó. "Vật báu" đó trước sau gì cũng sẽ biến mất nhanh thôi, do anh phải ăn và miếng bánh luộc kia dù có vàng, rộp phồng, thơm tho ra sao sẽ không còn hiện hữu trên bàn tay anh nữa. 

                ĐÓI  !!!

    Nhưng trước khi ăn, anh còn muốn hương thơm đó bốc lên tận cùng của khứu giác. Cứ cho là “Tận hưởng” mùi thơm trước khi anh chính thức ăn. 

    Thật là một ý nghĩ lạ đời !

    Người tù thở dài do anh không thể kéo dài thêm được. Gần Trai, mấy bạn tù khác đang loay hoay nướng bánh giống anh. Không biết ai là người  đầu tiên bày ra chuyện nướng lại lát mỳ lại trên lửa? Than hồng do đốt rừng thì tha hồ nhưng khẩu phần mỳ luộc thì mỗi người chỉ một lát thôi.  Nhóm tù trong giờ ăn trưa đang lay hoay bên đống than hồng,  chẳng ai để ý đến ai.

     Mọi ý nghĩ sao quá giống nhau. Những tính toán cho lát bánh mỳ đơn điệu đó ắt hẳn đến từ cơn ĐÓI triền miên ngày này qua ngày khác. Sự hành hạ liên tục đó không hẳn từ chuyện phần ăn trưa của tù binh đang lao động giữa rừng. Bao cây gỗ lim hay trường mật cứng như thép cũng triền miên hành hạ các anh. Đám rừng này vừa làm xong, lại phải qua chặt hạ đám rừng khác...tiếng rìu quất "chát chúa" vào thân gỗ cứng, đôi tay mõi nhừ nhức nhối. Từng cơn hành xác dai dẳng, chúng thi nhau nện lên bao tấm thân gầy guộc trơ xương của đám tù binh không chút ngơi tay... 

    Trai nhớ lại bao đống gỗ lim cùng trường mật, thẳng đẹp được xe molotova của bộ đội vào đem đi. Sức tù sẽ đưa gỗ lên xe. Tiền bán gỗ cho Quân Khu là chuyện của Trại.  Có người tài xế molotova nào đó chợt động lòng cho người tù cái bánh bao, khẩu phần ăn của người lính đó. Nhiệm vụ chính của tù là  phải chặt hạ cho bằng, hết và đốt dọn thật sạch, nhưng miếng ăn của tù chẳng bao giờ được tăng thêm. Non hai năm ra đây, từng ngày...từng ngày đám người bất hạnh bị cơn đói khốn nạn dày vò...

    -Hãy cho chúng tôi ăn no thêm ! mai đây nước sẽ  dâng cao, nước sẽ về Nông Cống, Tỉnh Gia ...  Nhiều đồng lúa sẽ được bội thu từ Lòng Hồ Sông Mực  này   ...có thiệt thòi gì đâu hả các ông?

Nhưng bao ước mong đòi hỏi chỉ là vô ích ...


                hình vệ tinh theo Google sau này


năm 2000- LÒNG HỒ SÔNG MỰC TRỞ THÀNH NƠI DU LỊCH XUNG QUANH LÀNG XÃ MỌC LÊN CHEN CHÚC


    Trở lại chuyện nướng bánh, không nói ra mà lại giống nhau. Ai cũng mang một ý tưởng là muốn kéo dài hình ảnh chiếc bánh, rồi ngắm, nhìn, suy nghĩ hay thừ người ra trong chốc lát. Cái ý tưởng ‘khốn cùng’ nhất là không ai muốn nó "chui  nhanh"  vào những cái bao tử "lép xẹp" . Dù sao chăng nữa cũng phải chấm dứt bằng quyết định dứt khoát. Phải ăn chiếc bánh kia. Giờ chặt hạ buổi chiều sắp đến. Những nhát rìu phải chặt vào thân lim “chan chát”, những cái rựa phải phát quang thật sạch quanh thân lim cho khỏi vướng mắc. Lát bánh đó sẽ được trả lại cho cánh rừng chiều nay với bao nhiêu nhát rìu vung lên hạ xuống cùng tiếng răng rắc của nhiều thân cây sắp đổ.  Nhành lá rậm rạp của nó phải được ‘băm vằm’ nằm rạp trên mặt đất. Điều kiện là tất cả cành ngọn phải được cưa lìa thân…Sức mạnh từ miếng bánh mỳ luộc là ở đây. Nó sẽ cho ra nhiệt lượng cùng sức lực được hút ra từ bao tấm thân gầy còm của tù. Đó là sức mạnh, nhưng cuối cùng sẽ trả lại hết cho cánh rừng trước khi toán tù binh về lại trại, chiều nay.


  Dứt dòng suy nghĩ, giờ Trai tự "cho phép" mình từ từ nhai. Cử động nhai xem chừng cẩn thận, rành rẽ không kém lúc nướng bánh chút nào. Anh cố cho nước bọt của mình thấm thật đều, thật nhuyễn vào từng "tế bào" nhỏ nhất của mẫu bột giữa hai hàm răng. Trai cố tình tạo cho chiếc lưỡi một cảm giác thật ‘hưởng thụ’ thật ‘đê mê’ đến tận từng góc cạnh của vị giác. Người tù không muốn hấp tấp để khối bánh đã được nhào nặn với nước bọt của anh xuống nhanh qua cổ họng. Cái dạ dày trống rỗng khốn nạn  thỉnh thoảng lại kêu lên "ồn -ột"...đó là âm thanh anh nghe và ai đang gần hay nghe lúc Trai đói bụng. Anh nhớ lại chứng bệnh này xảy ra từ lúc trại Ái Tử đi làm ruộng muối ở thôn Hà La - Cửa Việt.

      Trai đưa mắt nhìn lên từng ngọn đồi trơ trọi , cháy loang lỗ, toang hoác, hai bên còn nhiều mảng rừng tiếp tục phải bị chặt hạ và đốt sạch. Mấy dãy núi bao quanh trông giống như một lòng chảo, mai đây nước sẽ dâng cao, người ta sẽ thả lưới đánh cá nên mặt đất bắt buộc phải sạch gốc cây. Đây là điều vô phúc, ai rủi để gốc cây còn cao thì phải khuân củi tới đốt cho gốc cây đó cháy ra tro bụi mới thôi. Sao cũng được, Trai nghĩ-nhưng khốn nạn nhất là sự hành hạ của cơn đói, nó cứ kéo dài lê thê mãi không thôi!  

 



DI ẢNH BẠN TÙ CỐ CHUẨN ÚY BÙI BĂNG BIM 

(NĂM 2000 gia đình đã mang được di cốt về cải táng tại Huế)

    

Trai tiếp tục nhai. Giờ thì Trai cho phép mình được nuốt. Hàm dưới của anh đưa qua, lại chậm rãi.  Mắt anh nửa như lơ đảng hay  lờ đờ chẳng khác chi "cụ trâu già"  vừa xong buổi cày đang nằm "nhai lại" dưới bụi tre làng. Ta có thể tạm cho anh đang nhìn gì đó nhưng thật ra anh chẳng phải nhìn? Trai nghĩ về hình ảnh cái chết của bạn tù Bùi  Bằng Bim, cùng ‘lán’ với anh.  Bim tối 30 tết, đã dùng dây điện thoại liên lạc của hai trại 1 và 4 tự mình treo cổ chết trong rừng. Một đêm 30 cả trại đổ xô đi tìm Bim.Trại 4 báo động.Trong ánh đuốc bập-bùng, Trai thấy hai mắt Bim tuy chết nhưng còn hé mở. Lưỡi anh hơi nhô ra. Cuối cùng trại xác minh cái chết của B là treo cổ tự vẩn.  Hình ảnh hai năm trước, khoảng thời gian 1975-1976 khi hai đứa cùng ở tù Ái Tử, Quảng Trị, ngày đó Bim khá còn vui vẻ.  Mỗi lần đi rừng kiếm được cây gỗ nào đẹp và thẳng Bim  huýt sáo luôn miệng. Ngày tháng đó, tuy từng gánh củi nặng nề trên vai hay những khi mưa gió sụt sùi nhưng phải lặn lội tìm gỗ trong rừng, hai đứa không quên chia nhau từng nắm rau tàu bay, rau má.  Có lần Bim đi rừng về lượm đâu được mảnh nhôm đạn pháo sáng. Anh chờ dịp nghỉ lao động vội đem nó ra giũa, mài thành một chiếc lược nhôm thật đẹp. Dịp rảnh rang  khác Bim lại đem lược ra, tỉ mỉ chà lại thật bóng. Bim từng đi củi, khi lấy dây chạc chìu bó củi, người bạn này không quên lấy về nắm lá chạc chìu do lá chạc chìu thô nhám, Bim lấy về chà bóng cái LƯỢC NHÔM làm từ mảnh pháo sáng kia. Trai không ngờ Bim ngóng ngày người yêu của  ở Huế ra thăm. Rồi anh sẽ tặng nàng chiếc lược của tù để nàng làm kỷ niệm.



lá chạc chìu người bạn quá cố Bùi băng Bim từng hái về chà láng cái lược nhôm làm từ mảnh đạn pháo sáng trong rừng Ái Tử 



một thời gian sau Trai biết người yêu của Bim lại phải đi lấy chồng. Bim hiểu và nó buồn do ngày tháng tù tội biết khi nào về. Người yêu hắn xuân sắc chỉ một thời làm răng chờ mãi? 


    Hết nghĩ đến cái chết của Bim, Trai lan man nhớ đến cái chết của Đại úy Trần hữu Lực, rồi Trung Úy Nguyễn Di, Trại Một bên kia. Chết vì  "ăn nhầm gan cóc", người thì ốm đau.  Thế là hết! các anh  vĩnh viễn chẳng còn dịp trở về sum họp  với gia đình. 


    Có tiếng con tắc-kè kêu phá lên từ bộng cây lim đằng kia, đưa Trai về thực tại. Còn ít phút nữa, đám tù sẽ tiếp tục công việc. Một vài người còn gắng kiếm thêm vài nắm nấm rừng, thứ nấm tù đặt cho cái tên “nấm dai” do chúng dính cứng thân cây gỗ mục. Họ sẽ kiếm làm sao cho đầy cái lon ‘gô’ đen đầy lọ nghẹ. Chiều hết làm, về lại trại ai cũng bỏ chung với phần ăn chén cơm trộn bắp.  Buổi ăn chiều như thế nếu thêm nước vào nấu thành cháo nấm, cho no bụng. Đêm lạnh và dài, cháo nấm sẽ giúp đám tù bằng sự no nê giả tưởng. Dù sao có còn hơn không. Nấm hay bao môn thục, rau rừng là cứu tinh là bạn cho tù. Trước mắt Trai, hình ảnh quen thuộc vào những phút giải lao trong rừng, số bạn tù thật nhẹ nhàng, thật khéo, đang gỡ từng tai nấm. Giữa khung cảnh ngổn ngang cây gỗ của cánh rừng đang bị triệt hạ,  hình ảnh những con người đang đói. Tất cả đều gầy guộc trong những bộ áo quần tù trông rất ‘quái lạ’: đằng trước nửa xanh nửa trắng, phía sau lưng nửa trắng nửa xanh. Áo quần quái dị như vậy, chẳng ai dám trốn vào đâu? Tuy vậy, gai rừng ‘chẳng tha’, gai rừng từng làm rách tơi tả thứ vải tù mỏng manh kia. Rừng vắng lặng, đám người cũng im lặng. Họ đang lúi húi đi tìm những thứ gì ăn được.  Nhiều bóng người thấp thoáng, im lìm nơi chốn rừng thiêng nước độc.

     Trai bỗng nhếch mép cười, anh vừa nhớ đến một thứ trái cây lạ trong rừng. Bữa đó, mấy anh em liều lĩnh ăn xong thấy không chết mới hỏi nhau trái gì đây? ai cũng không biết;đành tạm đặt cho nó cái tên là ‘Trái Hết Sẩy’. Ơn rừng ở đây cho mấy thứ để ăn như măng nứa, môn thục dưới khe, nấm dai từ cây gỗ mục. Có người còn tìm ra loại cây leo cam thảo nấu ra sắc đỏ vị ngọt cũng tạm khỏi nhớ chất đường. Có ai đó còn tìm ra thứ cây giống cây quế, cạo vỏ ra nhai thấy cay cay. Một buổi tối nghe lao-xao có mấy người còn vớ được một mớ hạt sót nơi "đống phân voi" để lại; nhưng ăn được hạt sót cũng lắm công phu, phải nấu chín chà cho tan lớp vỏ ngoài còn hạt ở trong phải nấu kỹ rồi rang lại một lần nữa mới ăn được. Có lần anh cưa cây, cả tổ gặp may khi cưa bộng cây có một tổ ong muỗi, thứ ong này nhỏ hơn cả ong ruồi, rủi thay gặp lúc ong con đã nở hết vì vậy mật không còn nữa thế mà ai cũng tiếc rẻ chia nhau mỗi người một ít sáp ong còn lại. Sáp khá chua nhưng dù sao cũng phảng phất một ít hương vị mật ong, đó là chất bổ dưỡng , là chất sống , cho những người đang hồi suy kiệt đang khát khao mọi thứ khả dĩ bỏ vào được trong miệng , và sau hết vì ai cũng còn muốn sống để hi vọng có ngày trở lại miền nam.


     Giờ Trai đã nuốt xong miếng bánh cuối cùng. Theo thói quen anh với cái "gô"’ nước cam thảo lên uống thật đầy vào bụng. Anh muốn thứ bột mỳ đó sẽ thấm nhiều nước hơn và "trương phình " thêm. Có như thế bụng anh sẽ  có cảm giác no hơn dù đó chỉ là no nê trong chốc lát.


      Người tù giờ đây đã đứng hẳn dậy. Tay anh vội cầm lại cái rìu đang tựa vào một gốc lim. Chống rìu, một thoáng anh ngước lên ngắm bầu trời vào buổi xế trưa.  Cơn mưa phùn đã hết, bầu trời trong sáng trở lại.  Trời hôm nay có nhiều đám mây trắng bềnh bồng trôi làm anh chợt ước có phép mầu nào biến anh thành những đám mây kia. 
Anh sẽ được  "thảnh thơi phiêu du"  bay về  phương nam -  nơi đó có HUẾ, quê anh cùng những người thân yêu  đang đợi anh về  ./.


Đinh Hoa Lư 

edition 


nguồn edit: Miếng Bánh Trong Rừng cùng tác giả 

Trai: Tôn thất Trai, ch úy Quân Cảnh

John E. Steinbeck- ĐOẠN TRƯỜNG DI DÂN (Phần 3)

  tiếp theo phần 2 đề bài do người dịch tự đặt theo XA Lộ 66, con đường di cư xuyên bang của gia đình Joad từ Oklahoma tới California trong ...