Monday, August 4, 2025

CHỈ CÒN LÀ CỐ HƯƠNG (PHẦN 2)

 theo Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) của John E. Steinbeck

dịch thuật: Đinh hoa Lư 




…..(tiếp theo PHẦN I)


Ruthie và Winfield 2 em của Tom Joad 



 ...Ruthie cùng Winfield vừa kêu vừa trèo qua thành xe xong thả người xuống đất. Cả hai đồng reo lên:

            -Anh đâu? Anh Tom đâu rồi?

Chợt thấy anh trai đứng bên thềm cửa, cả hai cùng khựng lại, chậm bước tới nhìn anh mình, e thẹn.

            -Chào hai em, sao rồi ? người anh chào trước.



Tiếng hai đứa em trả lời nho nhỏ

                -Chào anh, chúng em vẫn thường.

  Nói xong chúng đứng xa một khoảng, âm thầm ngắm người anh một cách tò mò. Người anh cả đã phạm tội giết người rồi ngồi tù. Hai đứa nhớ lại ngày đó chúng thường chơi kịch làm nhà tù trong chuồng gà, lại còn giành nhau được làm tù nhân nữa.

anh rể Connie và chị cả Rose of Sharon


   Anh rể, Connie Rivers dở bửng xe, nhảy xuống trước xong giúp vợ Rose of Sharon trèo xuống khỏi xe. Người chị nhờ chồng một cách tín tưởng cùng nở nụ cười tinh tế đầy thỏa mãn, nhưng hai khóe miệng lại nhếch xuống một cách ngờ nghệch.

    Tom hỏi ngạc nhiên:

            -Sao lại có chị Rorasharn, em đâu ngờ chị lại có mặt trên xe như thế ?

            -Vợ chồng chị đang đi bộ, chiếc xe này đi bán đồ về trờ tới gặp rồi chở anh chị tới đây luôn.

    Sharon luôn tiện giới thiệu chồng:

                -Đây là anh Connie, chồng chị đây nè. 

Nàng giới thiệu chồng với em trai khá cởi mở.

    Hai chị em bắt tay nhau cùng so lại chiều cao với nhau như thuở nào xong lại nhìn nhau một cách thân mật, hạp ý.

            -Ồ, em nghe anh chị bận rộn nhiều lắm mà?

    Nàng nhìn xuống:

            -Em có thấy đâu mà biết ?

            -Má kể lại vậy đó chị. Khi nào chị sinh cháu vậy ?

                -Ồ, chưa đâu em, còn lâu chưa tới mùa đông mà.

    Tom cười vẻ trêu ngươi:

                        -Anh rể chắc sẽ chán  làm một mình trong vườn cam nay mai thôi hả? một trong mấy căn nhà màu trắng của đại gia đình ta, rồi có vườn cam mọc đầy xung quanh nữa...

    Hai bàn tay Sharon ướm thử lên bụng:

                -Em không thấy đó sao... nàng cười, nụ cười tự mãn và bước vào trong.



Henry Fonda trong vai Tom Joad trong drama film 1940 cùng tên The Grapes of Wrath 



     

Henry Fonda trong vai Frank với phim Once upon a Time in the West (1968)
    

Chạng vạng tối đã xuống nhưng khí trời vẫn còn nóng. Từ hướng tây, một vài tia sáng rơi rớt còn sót lại chiếu hắt lên chân trời. Chẳng ai bảo ai, toàn bộ gia đình đều tụ họp lại kế chiếc xe. Đây là buổi họp của một đại gia đình và những quyết định quan trọng bắt đầu. Ánh sáng bàng bạc của bầu trời chạng vạng làm màu đất đỏ chói sáng thêm hơn. Nó lại càng làm cho tầm vóc của vùng đất này càng sâu đậm hơn. Từng hòn đá, từng cái cột-một thứ xây dựng gì trên đó càng sâu đậm vững chắc hơn so với ban ngày. Người ta lại nhìn thấy chúng càng lạ kỳ hơn, cá biệt hơn. Cái cột chủ yếu là cái cột; dựng lên từ mặt đất nhưng khác hẳn với đám bắp cùng mọc lên từ mặt đất. Cây cối giờ lại chuyện khác, không còn là năng xuất của vụ mùa nào nữa. Khóm liễu khô cằn tả tơi kia cũng là chuyện riêng do nó tách biệt ra khỏi các cây liễu khác. Mặt đất giờ lại có thứ ánh sáng của buổi chiều hôm. Mặt tường màu xám của mái nhà quay về phía tây nhận được thứ ánh sáng nhấp nhem như mặt trăng từng được nhận. Màu xám của chiếc xe đầy bụi đất ngoài sân cũng y vậy, nó đang nhận được ánh sáng nhấp nhem của hoàng hôn.

     Mọi người trong nhà hôm nay xem bộ băn khoăn lo lắng từ một vấn hệ trọng tối nay với sự im lặng đầy vẻ quan trọng. Mỗi thành viên tự biến thành một đại biểu trong một tổ chức vô hình. Họ nghe theo những cảm xúc đến một cách tự nhiên, tiềm tàng trong suy tính của mình. Những đôi mắt suy tư, trầm lặng rồi sáng lên tia hi vọng nào đó- long lanh trong ánh chiều tàn, nổi bật trên những khuôn mặt bẩn thỉu đầy bụi bặm.


                                             Ma and Pa Joad

     Mọi thành viên đều ngồi bàn chuyện bên cạnh chiếc xe do căn nhà của họ đã bị cán nát. Mái nhà kia đã chết giống như cánh đồng ngoài kia đang thực sự chết. Giờ chỉ còn lại chiếc xe tải là nguồn sống, nguồn hi vọng to tát cùng năng động nhất cho họ. Chiếc Hudson đời cũ, mặt két nước trông móp méo và nhiều vết rách, những góc cạnh của các bộ phận truyền động bám đầy bụi bặm, dầu mỡ, niềng bánh xe bay mất lúc nào, thế vào đó là lớp bụi đỏ bám đầy. Chiếc xe nay là lò sưởi, là phòng sinh hoạt của một gia đình. Hình dạng nửa là xe du lịch, nửa là xe chở đồ, hai thành bên lại đóng cao nên hóa ra xấu xí, cục mịch.



    Pa đi quanh ngắm xe một vòng xong ngồi bệt xuống, cầm chiếc que vạch trên sân. Một chân Pa duỗi thẳng trên đất, chân kia chống, nghỉ trên đầu bàn chân, xong nhẹ kéo lui sau để đầu gối cao hơn chân kia. Ông thả cánh tay trái trên gối trái; khuỷu tay phải tựa trên gối phải, nắm tay phải tựa cằm. Tư thế ngồi của ông ta giờ là thế. Với dáng này, ông ngồi ngắm chiếc xe. Bác John lại gần ông, cũng ngồi bệt bên cạnh. Mắt bác lo nghĩ. Ông nội giờ ra khỏi nhà. Thấy hai anh em ngồi bên nhau, ông tiến nhanh lại ngồi nghiêng vào bậc cấp chiếc xe, đối mặt với hai người, chứng tỏ ông là cái nhân (nucleus) của buổi họp gia đình. Tom, Connie, và Noah cùng nhau nhẹ nhàng bước vào, xong cùng ngồi xuống. Vòng bán nguyệt trong đó Ông Nội là tâm điểm cho buổi họp xem như đang hình thành. Cuối cùng đi ra khỏi nhà cùng Bà Nội. Rose of Sharon đi sau. Họ rón rén đi ra kiếm chỗ đứng sau nhóm đàn ông. Ba người đàn bà đứng sau, tay đặt vào hông. Hai đứa trẻ, Ruthie cùng Winfield bước nhảy, chạy theo cạnh đàn bà; ngón chân chúng xoáy sâu vào lớp đất đỏ nhưng không gây tiếng động nào. Chỉ vắng Thầy Casy. Ông tế nhị tìm một nơi riêng sau lưng nhà. Ông là vị mục sư khôn khéo, biết điều và thông cảm với mọi người.


   Hoàng hôn yếu dần. Thời gian đầu, mọi người ngồi, đứng, yên lặng, chưa nói gì. Pa không nói riêng với ai, ông mở đầu lời giới thiệu cho cả gia đình:

        -Đồ trong nhà chúng ta mang bán chúng nó bóc lột tận mạng không được bao nhiêu cả?! Tụi nó biết nhà mình không nán lâu được nên nó ép. Chỉ được vỏn vẹn mười tám đô la thôi.

Má vẻ nóng nảy, nhưng bà cố giữ bình tĩnh.

Noah, người con cả hỏi:

            -Bao nhiêu? cộng hết cả thảy chúng ta được bao nhiêu ?

    Pa vẽ vu vơ trên đất, miệng lẩm bẩm vài giây:

                    -Một trăm năm mươi bốn tất cả...nhưng Al nói chúng ta cần lốp xe mới bây giờ, những bánh xe cũ này không chạy được bao lâu nữa.

        Al. Joad giờ này bắt đầu dự phần vào cuộc họp. Al luôn đứng cạnh đàn bà, lời nói có vẻ trịnh trọng:

            -Chiếc xe này cũ quá và hay nổi điên thình lình (ornery)lắm đi thôi !

          Anh ta giải thích, rạch ròi, quả quyết:

                      -Con kiểm soát kỹ lưỡng từng thứ một, toàn bộ chiếc xe này trước khi quyết định mua. Con đếch cần để vào tai chuyện mấy tay kia dụ con về chuyện cái giá quá rẻ (what a hell of a bargain she was ). Con đặt ngón tay thật lâu những nơi quan trọng, chẳng thấy có mạt cưa. Hộp số cũng không có mạt cưa. Bàn đạp côn, quay vòng tay lái xem độ thăng bằng bánh xe. Con đã chun dưới gầm xe xem xét khung xe có bị bẹt ra ngoài không? Xe chưa bị lật. Chỉ có nứt bình điện và họ sẽ thay bình điện mới cho mình. Bánh xe không còn tốt, nhưng cỡ này dễ mua. Xe chạy chẳng êm gì (ride like a bull calf) nhưng không chảy dầu. Lý do con đồng ý mua vì xe này thiên hạ dùng nhiều. Nghĩa địa xe (wreckin' yards) con thấy rất nhiều loại Hudson Super Sixes này nên chúng ta tha hồ mua đồ phụ tùng giá rẻ. Giá này, nhà mình có thể mua xe khác to hơn, đẹp mắt hơn, nhưng đồ phụ tùng quá khó kiếm và quá đắt. Như vậy, cách nào chăng nữa rồi cũng chọn chiếc Hudson này thôi.


   Kết luận cuối đó là trình bày của Al. tới gia đình. Anh ngưng nói, chờ ý kiến mọi người.

   Ông Nội trên danh nghĩa là chủ trì cuộc họp, nhưng chẳng hề điều khiển. Chẳng qua ông ngồi vì đó là vị trí danh dự để giữ gìn tập quán cho gia đình. Nhưng chính nội lại là người có ý kiến đầu tiên dù hay dù dở. Nhóm đàn ông đang ngồi bệt trên đất, mấy người đàn bà đang đứng, tất cả đang đợi lời nói của Nội.

                -Con nói đúng đó Al.... Ông Nội lên tiếng...Ta ngày trẻ cũng ngốc nghếch chẳng biết gì như con chó lai sói nuôi trong nhà. Nhưng khi có việc thì làm tròn nhiệm vụ. Con đã trưởng thành rồi đó.

   Ông dứt lời như vị chủ chiên trong buổi đang ban phước lành. Al hơi đỏ mặt vẻ mặt mãn nguyện.

   Pa tiếp lời:

                    -Pa nghe có tiếng động bên phải phía ba ngồi. Nếu là ngựa thì chúng ta không đổ lỗi cho Al. Nhưng Al là người thợ máy duy nhất trong nhà mình thôi.

Tom chen vào:

                -Con biết một ít. Con có làm tại McAlester. Al chọn lựa vậy là đúng.

    Al có phần đỏ mặt với ý này của Tom.

    Tom tiếp:

                -Con xin thêm ý này...như trong nhà biết đó, vị thầy đạo này muốn đi cùng gia đình chúng ta...

    Anh dừng ngang đây. Những tiếng vừa rồi còn nằm yên trong tai mọi người, tất cả vẫn im lặng...

...Ông là vị thầy đạo khả kính, Tom tiếp ...Gia đình chúng ta biết thầy ấy khá lâu rồi. Nói nghe là lạ một xí, nhưng thầy nói chuyện nghe rất hợp lý hợp tình.

    Anh thôi nói sau khi đưa đề xuất này ra cho gia đình.


   Ánh sáng dần dần khuất hẳn. Má một mình rời buổi họp bước vào nhà, tiếng kim loại kêu trên bếp vang ra. Ít phút sau bà ra lại buổi họp đang dở dang.

Ông Nội cho ý đầu tiên:

                -Người đời có hai cách nghĩ suy. Trong đó có kẻ cho người giảng đạo y như là liều thuốc độc.

                -Nhưng ông đã nói là không làm chức năng đó nữa. Tom đính chính ngay.

        Ông vừa nói vừa đưa tay vẫy lui, tới:

                    -Khi đã là vị tu hành, thì vẫn mãi là vị tu hành. Đó là những gì con không xóa được. Có người cho rằng có vị thầy đi theo thì là điều hay chứ sao. Nếu có ai qua đời, thì có người ban phép khi an táng. Đám cưới đến ngày, hay quá hạn thì cũng có một có vị mục sư nào chứ. Sinh con ra, thì thêm một con chiên dưới mái gia đình. Đối với ta, giáo sĩ thì mãi mãi là giáo sĩ. Chúng ta phải mời thầy theo thôi. Ta mến thầy lắm, thầy rất nghiêm túc.

   Pa dúi sâu cái que vào lòng đất ngoáy quanh tạo thành một lỗ nhỏ.

                -Có nhiều cái phải nghĩ cặn kẽ hơn là chuyện may mắn hay là người tốt nữa kìa ...

   Pa tiếp tục phân tích:

            -Chúng ta phải thực tế hơn. Nghĩ gần lại thì sao đây? Hãy xem này...Ông và Bà nội là hai người ... Con đây, Bác John và Má tụi nhỏ là năm nghe. Thêm Noah, Tommy, Al. --tức là tám . Rosasharn, Connie tức là mười nhe. Ruthie ,Winfield tổng cộng mười hai. chúng ta phải đem chó theo vì chúng ta không có cách nào? Chúng ta không nỡ bắn con chó trung thành này, và còn ai ở đây mà cho người ta? thế là chúng ta có đến mười bốn rồi.

                    -Đó là chưa kể gà qué cùng hai chú heo nữa ... Noah chen vào thêm. 

     Pa tiếp tục:

                    -Pa tính muối thịt mấy con heo kia để ăn dần trên đường. Chúng ta cần thịt. Phải mang theo thịt muối, rất cần cho nhà mình. Pa rất lo, nếu tất cả ai cũng đi theo, gồm cả vị thầy đạo nữa chúng ta phải có bổn phận nuôi thêm (kin feed) thêm một miệng ăn phải thế không ?

    Pa hỏi Má nhưng không cần quay đầu:

                -Nhà mình có bổn phận nuôi nổi  không mình ?



    Má đằng hắng:

                -Không phải là bổn phận nuôi thêm mà chúng ta sẽ giúp thêm hay không ? Bà nói có vẻ cương quyết

                    -Theo như  ý nghĩa của hai chữ 'bổn phận' nuôi, nhà mình chẳng có sức đâu, chẳng tới được California, chẳng gì cả; nhưng theo như chữ '"SẼ" thì được, tại sao vậy? chúng ta sẽ làm những gì chúng ta sẽ làm. Giờ chỉ bàn về chuyện "sẽ làm", rõ ràng rất lâu ở đây, ta chưa bao giờ nghe gia đình Joad hay Hazletts từ chối chia sẻ ai miếng ăn, không cho ai tá túc ,hay không cho ai đi nhờ lúc lỡ đường đâu? Gia đình Joads là vậy.

      Pa ngắt ngang:

                -Nhưng không đủ chỗ thì sao? 

vừa hỏi ông vừa xoay đầu lại phía bà, xem chừng có phần hổ thẹn vì câu nói hẹp hòi này.

  Giọng Má trả lời càng làm ông hổ thẹn thêm:

                -Sao ông không giả sử tất cả chúng ta không đi được xe này ?

                -Chiếc xe không đủ chỗ trên sáu người, thế mà đếm ra, mười hai người phải đi, chắc chắn lên đường theo xe cũng xong. Thêm một người chả làm đau ai; một đàn ông sức khỏe và mạnh bạo, không bao giờ thấy đó là gánh quá nặng nề. Chúng ta có trong tay hai con heo và hơn trăm đô la, chúng ta lo sợ chuyện nuôi thêm một người ư?


  Má ngưng nói, Pa quay đầu lại phía khác, tâm hồn ông bỗng nhiên cảm thấy sống sượng, trơ trẽn từ lời giải thích của Má như roi quất vào lương tâm ông (his spirit was raw from the whipping).

                 -Một vị thầy giảng đạo đi theo gia đình ta thì một điều lành khi chúng ta lại được ban phép ân sũng vào mỗi buổi sáng...

Bà nội giờ xen vào một ý kiến thuận lợi.

   Pa nhìn vào nét mặt từng người vẻ mặt bất mãn, cuối cùng ông phải bảo Tom:

                -Thế thì gọi thầy ấy lại đây, Tommy? nếu thầy muốn đi thì phải tới đây.

Tom bật dậy đi vào nhà:

            -Thầy Casy! Ô, thầy Casy đâu rồi ?

  Một giọng nói nho nhỏ từ sau nhà, Tom bước ra sau góc nhà, vị thầy đạo đang ngồi dựa lưng vào vách, mắt ông hướng nhìn tia sáng le lói từ vị sao hôm mới mọc từ cuối chân trời.

                -Con gọi ta? ông hỏi.

                -Vâng, nãy giờ trong nhà con đang bàn về chuyện thầy đi theo gia đình đây. Thầy nên vào họp với mọi người trong nhà để bàn nhiều vấn đề nữa thầy ạ.


   Thầy Casy đứng dậy. Ông biết cái lệ của những gia đình ở đây, ông cũng biết ông phải đi theo họ. Thật sự, ông nhận biết vị trí của ông khá cần thiết trong gia đình lúc này. Bác John nhích qua một bên nhường khoảng giữa bác và Pa cho thầy. Thầy Casy cũng ngồi bệt xuống đất như mọi người, xong thầy hướng về Ông nội người chủ trì cuộc họp gia đình.


   Má lại vào nhà. Có tiếng rít do cái chụp ngọn đèn treo được vặn ra. Thứ ánh sáng vàng bắt đầu sáng lên trong nhà bếp. Bà tiếp tục giở nắp nồi lớn lên, mùi thơm thịt ba chỉ (side meat) cùng củ cải xanh theo huớng cửa bốc ra. Mọi người chờ Má ra lại sân vì đối với gia đình vị trí của Má lúc nào cũng quan trọng.

  Tiếng Pa tiếp tục:

                -Nhà mình phải chọn lựa thời gian ra đi. Càng sớm càng tốt. Ta nhắc lại một điều quan trọng nhất là phải hạ thịt mấy con heo và ướp muối tất cả mang theo. Hãy làm chuyện này càng nhanh càng hay.

  Noah đồng ý ngay:

                -Nếu nhà mình mọi người đều chung tay, bà con ta (we kin) ngày mai có thể bắt tay làm ngay, và cả nhà mình có thể lên đường vào rạng ngày mốt.

  Bác John chẳng đồng ý:

            -Thịt cần lạnh mà làm ngày mai lúc trời nóng sẽ hư hết. Cách đây một năm chuyện heo muối cũng hư thế rồi. Thịt muối sẽ hư hết nếu lúc làm không để lạnh.

            -Tốt thế thì đêm nay phải hạ heo ngay thôi, càng nhanh càng hay. Chúng ta ăn xong phải bắt tay hạ heo ngay. Không biết còn muối không?

  Má trả lời ngay:

            -Muối nhiều lắm. Còn hai thùng cá mòi muối còn tốt nữa.

            -Tốt quá, đêm nay phải xong. 
Tom quả quyết.

    Ông nội bắt đầu gãi, kiếm điểm tựa để sửa soạn đứng lên:

                -Tối quá rồi, ta đói bụng đây. Lạy Chúa, Mong sao tới cho được California ta sẽ bốc từng nắm nho đầy, ngắt từng trái ăn suốt ngày.

    Khi ông đứng dậy, mọi người đứng theo.

      Ruthi cùng Winfield tuổi hồn nhiên vô tư nhảy nhót trên lớp bụi đỏ, đùa như điên. Ruthie giả giòng khàn khàn dọa Winfield:

                -Giết mấy con heo và đi California. Giết mấy con heo và đi...ngay bây giờ!!!

  Winfield giả làm trò điên. Cậu nhỏ chận ngón tay vào cổ họng, nhăn mặt thật dữ tợn, đi lạng choạng giọng ré lên:

            -Ta là con heo già đây, ...nhìn nè. Ta là con heo già đây. ..Hãy nhìn máu me này, Ruthie.

  Cậu bé đùa xong cố làm vẻ loạng choạng ngã nhào xuống đất, tay chân chới với yếu ớt dảy dụa... Nhưng Ruthie già dặn hơn cậu bé, cô biết ý nghĩa của thời gian là chuyện đáng quan tâm ."Rồi Đi California" cô cố ý lập lại như ý thức về một thời điểm cũng là biến chuyển vĩ đại nhất trong đời cô gái.

***

  Người lớn đi qua lớp bụi dày ngoài sân cùng vào nhà tập trung dưới ánh đèn trong căn bếp. Má đã dọn xong món thịt ba chỉ cùng củ cải xanh, trên mấy cái dĩa thiếc. Trước lúc Má ăn, bà không quên đặt cái chậu rửa mặt cũ lên lò, xong đun củi cháy rừng rực. Má xách từng xô nhỏ nước tới đổ vào cho đến lúc đầy chậu đầy chậu trên bếp xong, bà lại mang những xô nước đầy bỏ sẵn sàng quanh bếp. Mọi người vội vàng ăn trong khi bếp lửa tiếp tục cháy hừng hực. Ăn xong tất cả ngồi ở bậc cửa chờ nước sôi.

   Bên ngoài bầu trời đen tối, ánh ngọn đèn treo từ nhà bếp hắt ra tạo thành khoảng sáng vuông trên nền đất. Bóng ông Nội gù lưng in giữa khoảng sáng kia. Noah dùng cọng chổi rơm xỉa đều hàm răng mình. Má và Rose Sharon lo rửa dĩa chồng lại lên bàn.

   Thình lình, tất cả mọi người đều bật dậy nhanh chóng bắt tay vào việc.

     Pa lo thắp thêm ngọn đèn treo khác. Noah lo đem cái thùng đồ nghề từ bếp ra mài lại mấy lưỡi dao mổ heo trên miếng đá carborundum đã mòn. Anh đặt cái đồ cạo lông lên thớt, cái dao để cạnh bên. Pa mang ra hai cái que cưng, dài ba tấc Anh, dùng rìu vót nhọn một đầu, ở giữa ông thắt gút đôi (double half-hitch). Nước trong chậu bắt đầu bốc hơi và sôi.

    Noah hỏi Pa:

            -Đem nước sôi xuống đó hay chúng ta mang heo lên đây vậy?

            -Mang heo lên đây thôi, đem nước sôi tới đó heo vẫy vùng con có thể phỏng. Nước sôi có chưa?

                -Bắt đầu sôi đây. Má trả lời.

            -Tốt. Noah con và Tom cùng Al đi theo, Pa xách đèn. Chúng ta giết heo dưới chuồng rồi mang chúng lên đây.

      Noah cầm dao, Al. xách rìu. Bốn người đàn ông đi xuống chuồng heo, bước chân nhấp nhoáng (flickering) theo ánh sáng ngọn đèn. Ruthie và Winfield lo chạy theo, bước chân nhảy nhót trên mặt đất. Tới chuồng, Pa dựa người lên hàng rào, tay giữ ngọn đèn. Mấy con lợn non ngái ngủ, rụt chân thủ thế. Chúng rên ư ử tỏ vẻ lo sợ. Bác John và thầy Casy ra kịp để giúp tay.

                 -Thôi được rồi,
Pa tiếp tục ra lệnh ...đâm chúng, chọc huyết chúng tại đây. Đem vào nhà bếp trụng lông. 

Noah Tom tuân lời tiến tới cạnh chuồng.

   Hai anh em ra tay giết mấy con heo nhanh cùng hiệu quả. Tom trở rìu dùng đầu cùn, gõ hai lần vào đầu heo; Noah nhoài người tới con heo đang ngã quỵ, dùng dao cắt vào động mạch lớn, làm dòng máu heo phun xối xả, xong vắt xác con heo chưa chết hẳn, còn kêu eng éc lên hàng rào. Vị thầy và bác John kéo một con bằng cách nắm mỗi người một chân sau. Tom và Noah kéo xác con còn lại. Pa cầm đèn theo sau cùng, hai dòng máu đen kéo lê trên lớp đất.

    Vào nhà, Noah bắt đầu thọc dao vào giữa gân cùng xương đùi sau mấy xác heo; xong chuồi những que nhọn đầu để làm bẹt bốn đùi heo ra. Xong xuôi, xác heo được treo lên mấy cái xà rui 2x4 lấy từ mái nhà xuống . Đàn ông giờ lấy nước sôi tưới lên lớp lông đen. Noah lo rạch từ đầu này đến đầu kia, cho ruột heo đổ xuống đất. Pa vót thêm hai que nhọn nữa để giữ xác heo hỏng lên cao, Tom dọn rửa, Má dùng con dao cùn cạo lông. Al xách xô và xẻng tới dọn ruột heo đi đổ ngoài xa. Hai con mèo hoang vô theo Al, chúng kêu meo meo inh ỏi; mấy chú chó nhà vội theo anh, gầm gừ nho nhỏ dọa hai con mèo.

   Pa ngồi ở bậc thềm ngắm xác heo đang treo dưới ánh đèn. Lông heo đã cạo xong, chỉ còn một vài giọt máu cuối cùng tiếp tục rơi xuống vũng máu đen ngòm dưới đất. Pa đứng dậy tới xác heo, ấn ngón tay xem thử, ông lại tiếp tục ngồi chờ. Ông và Bà nội tiếp tục ra nhà vựa tìm chỗ ngủ. Tay ông nội mang theo cây đèn lồng thắp bằng sáp. Chỉ có những người còn lại, họ im lìm ngồi tại bậc thềm. Connie, Al, Tom ngồi trên mặt đất, lưng tựa vào vách nhà. Bác John ngồi trên chiếc hộp, Pa trước bậc cửa. Chỉ cùng Sharon lay hoay lui tới. Ruthie cùng Winfield tuy muốn ngủ, hai đứa vừa cùng nhau đi vào miệng chưa ngớt cãi nhau. 

    Pa gãi đầu lo lắng, ông dở mũ, luồn ngón tay vào tóc:

                    -Ngày mai chúng ta muối heo thật sớm, và bắt đầu cho chất đồ lên xe, mọi thứ trừ giường ngủ, và sáng mốt sẽ lên đường. Mọi người phải làm việc hết mình ngày mai mới được.

    Giọng ông xem chừng khó chịu.

    Tom xen vào:

                -Suốt ngày chúng ta lay hoay mất hết thì giờ rồi, mọi người phải tìm việc mà làm mới xong.

    Tất cả nghe thế đều nhốn nháo.

  Tom đề nghị:

                    -Chúng ta có thể sẵn sàng cho rạng ngày mai là lên đường được thôi. 


    Pa dùng tay xoa xoa đầu gối. Xem chừng không ai ưa ý kiến này.

    Noah chợt nói:

        -Không nên treo nguyên heo mãi như thế đợi chờ ướp muối. Cắt nhỏ ra mau lạnh hơn thôi.

Giờ Bác John mới lên tiếng, có gì đó áp lực trong lời nói :

                -Chúng ta sao cứ hao phí thì giờ lanh quanh ở đây? Ta muốn dẹp cái chuyện này. Giờ là lúc chúng ta sẵn sàng, tại sao lại không đi ?

    Ý tưởng thay đổi đó lại lan nhanh tới mọi người:

                -Tại sao chúng ta chưa đi? chúng ta vừa đi vừa ngủ dọc đường mà.

    Lại thêm một trạng thái vội vả ‘bò nhanh’ lan tới ý kiến mọi người.

    Pa than:

                    -Họ nói xa tới hai ngàn dặm, ôi chặng đường xa chết khiếp. Chúng ta phải đi. Noah, con và pa cắt nhỏ heo ra và sắp xếp mọi thứ vào xe.

    Má thò đầu qua cửa:

                    -Trời tối vậy, lỡ quên đồ lại không thấy thì sao đây?

                    -Trời rạng con sẽ trông quanh lại lần chót má ơi.
 Noah lên tiếng cho Má yên lòng.

    Mọi người vẫn ngồi tính chuyện trong đầu. Trong thoáng giây,  Noah vọt dậy mài con dao lưỡi cong lên phiến đá mài.

                -Má, hãy dẹp giúp con đồ đạc trên bàn đi má.

    Nói với má xong anh tiến lại gần xác heo, cắt dọc một đường cạnh xương sống , bắt đầu lột thịt, tách ra khỏi xương sườn…

(CÒN TIẾP PHẦN 3)



Sunday, August 3, 2025

MƯA QUÊ HƯƠNG VÀ NỖI BUỒN GIÁP HẠT

 

edit và tái đăng by ĐHL

    Mưa quê hương, đó là lúc ta đưa tay hứng những giọt nước trong ngần, mát lạnh; chợt một niềm thương, nỗi nhớ len lén vào lòng. Kỷ niệm về một thuở tuổi thơ, những chiếc thuyền giấy nổi bập bềnh theo trọt nước trước hiên. Ngày đó xa rồi,  dưới mái tranh quê hay miền trung chứa chan hoài niệm.  Nhưng mỗi khi quê hương đang chống chọi trong dòng nước lũ cố tìm sự sống thì bao giọt mưa kia lại hiện thân cho nỗi lo sợ hãi hùng. Mưa quê hương mỗi lúc đông về kèm theo nước lũ đó là lúc trời đất biến thành khổ ải, tang thương phủ chụp lên lớp người dân nghèo lam lũ. Bao dòng nước mắt đau thương miền trung sao vẫn tuôn rơi mãi với số phận định phần.




Cố gắng quên, nói cho văn vẻ hơn ta sẽ cho rằng mưa là "khúc luân vũ đáng yêu" từ trời cao trong bao giọt nước trong ngần, long lanh rơi xuống trần gian. Chất phát cùng gần gũi với người làm ruộng- mưa là lúc kẻ nông phu ngước mặt nhìn trời, lòng hả hê vui sướng khi nghĩ đến bao hạt lúa vàng căng đầy nhựa sống cho mùa gặt tới.  

Lắm lúc mưa là lúc người thi sĩ nhìn qua khung cửa hay nghe tiếng nước rơi trên hàng sầu đông rồi dệt nên nhiều vần thơ mượt mà, cảm tác. Người nhạc sĩ chợt rung động vội ghi ngay từng nốt nhạc buồn trong tiếng mưa rơi. Lại buồn thay cho người cô phụ, con tim giá băng quặn thắt, bao năm dài nhớ chồng vĩnh viễn đi xa. Tình cảm hơn, ta lại nghĩ về bao mối tình mãi vương vấn tơ lòng, ai đó lúc tương tư  trên  căn gác vắng. Sống với hoài niệm, biết ơn, ta sẽ nhớ về chuyện ngày xưa trên vùng biên giới xa xôi, có anh chiến sĩ vội kéo tấm poncho  lúc màn mưa theo gió quất xối xả vào người...


hình- khoai măng cắt khô dành khi ăn độn


Nói sao hết chuyện trần gian khi mưa trời rơi xuống.  Dù sao chăng nữa, mưa muôn đời vẫn là mưa. Đó là sự  kết tinh bao làn hơi, trả lại thế gian những giọt nước tinh khiết, sau bao chuyến phiêu lưu kỳ thú trong không gian thênh thang và quãng khoát. Những mầm xanh sẽ nhú, bao mạch sống sẽ tiếp nối vào đời cũng nhờ mưa. Lạy trời mưa xuống    Lấy nước tôi uống  Lấy ruộng tôi cày... 

Niềm ước mơ, mong muốn của người dân quê mộc mạc biết chừng nào. Biết bao khao khát nhưng thực tế của những ai từng an phận với đời sống "chân lấm tay bùn".  Cuộc đời của lớp người "cày sâu cuốc bẫm" như quyện vào những câu ca dao chất phát truyền miệng với nhau dù qua bao nhiêu thế hệ người làm nông vẫn luôn ghi nhớ nằm lòng.  Người bám đất và đất nuôi người. Người dân quê lớn lên từ ruộng đồng chỉ những ước mong đơn điệu. Cuộc đời mộc mạc, họ đâu mơ chi phù phiếm xa hoa? Bao ước mơ từ xóm làng lam lủ không gì hơn là hình ảnh của những "bát cơm đầy"hay "rơm đun bếp".

Nhưng khi lụt về, đó là lúc "ông tha mà bà chẳng tha", điệu luân vũ của trời và đất lại trở thành hung tợn. Dòng nước cuồng điên đang gieo muôn triệu khối nước đày đọa lên bao tấm thân gầy nghèo khổ, tội tình.  Biết bao kiếp người chỉ biết những cầu xin đơn thuần bình dị. Mưa bỗng dưng hóa thân thành khổ ải, tang thương với bao dòng nước lũ băng băng, chảy xiết!  Ôi! những mái tranh tan tác, nổi trôi;  bao ruộng nương chìm đắm. Mưa giờ không là thơ là nhạc, mà là những tiếng khóc  ai oán thê lương!



Miền trung bao đời vẫn thế: căng mắt canh chừng cơn thịnh nộ của thiên nhiên khi thu về đông đến. Những giấc ngủ chập chờn trong gió thét mưa gào. Lụt -bão sao mãi hoài  là 'định mệnh an bài' cho miền đất khổ -nắng cháy da người-mưa dầm thối đất?  Thế mà lạ làm sao? Ai đi xa cũng muốn mau về nhà. Chỉ vắng nhà ít hôm thôi, người xa nhà chưa gì đã nhớ đã thương. Mẹ già nhớ hàng cau, thương bụi rơm bên mái tranh nghèo, vấn vương làn khói cơm chiều hay chắt chiu từng chút rơm đun bếp. Bác nông phu nhớ con trâu già cùng mấy thửa ruộng thân yêu. Bác nhớ làm sao những trưa nghỉ cày lúc ngồi vấn thuốc. Đó là những trưa bác dựa lưng bên gốc cây làng ngó lên Trường Sơn xanh thẳm. Tình quê chỉ ngần ấy thôi nhưng mặn mà chẳng chút nhạt phai. Một quê hương gian khó với thiếu thốn gian nan nhưng tình quê mãi mãi nồng nàn, lòng yêu thương làng nước chẳng hề phai nhạt.


        

    LỤT LẠI VỀ, chuyện "đày đọa của ôn trời" chẳng hề thay đổi. Nước tràn vào làng, chảy băng băng ngoài ruộng. Lụt mấp mé vào đến cái trọt nước trước hiên. Mấy cặp mắt đau đáu  nhòm chừng, phấp phỏng lo âu...


 Lạy trời nước rút!  

 Cái sập lúa vẫn còn an toàn trước mắt mạ. Trai tráng trong nhà chẳng còn việc chi, đang đi kiếm vài mớ cá nước lụt. nước lên phủ ngập cánh đồng, đôi bờ tre xóm dưới lờ mò theo làn mưa. Cái tơi không đủ che thân, người lo đi cất rớ, kẻ khác đi nơm. Mớ cá kiếm về, nặng mùi bùn đất làm ai cũng vui quên cơn gió lạnh.


Nhạc mẫu tôi kể lại cho vợ chồng người viết nghe chuyện dưới quê ngày xưa vào cơn giáp hột. Môn khoai cũng cạn sạch, nhưng lúa ngoài đồng chưa chín. Có lúc túng quá người mình phải ra đồng truốt những hạt lúa chín trước ở phần chót bông về giã ra nấu ăn tạm. Những ngày giáp hạt như thế, người dưới quê ngó quanh nương chẳng còn gì bỏ được vào om. 


 Thế mới biết tại sao người xưa (hay miền trung) hay để dành, hà tiện chắt chiu từng củ khoai khúc sắn là thế. Dù được mùa, nhưng chẳng ai quay lưng phụ phàng với khoai môn cả.




Hình ảnh mạ ngồi cắt từng mớ khoai măng, phơi khô phòng đói.  Những sợi khoai khô vuông dài, mạ mừng do phơi được nắng. Ngoài khoai khô, mạ còn cất vài thúng sắn lát, mong mỏng cong cong... Khoai sắn phơi khô, con nhà nông ai mà chẳng quý. Nhớ hình ảnh mạ lom khom cất đặt từng mớ khoai khô vào trong sập gỗ, mạ cất đặt như nâng niu thương mến vô cùng.

Mạ còn gắng chắt chiu, gom từng cọng rơm, mong răng ngọn lửa phập phồng trong gió ngoài nương vẫn nấu chín nổi nồi cơm hấp sắn. Mớ cá hôm nay, những con cá mụn mạ kho cho cả nhà, sao thơm tho ngon miệng lạ thường. Giêng Hai đến là lúc trời lạnh như "cắt da".  Bao thiếu thốn, bao tính toán lo toan.  Đàn ông vác cày ra ruộng thì lại phải lo ăn, mà ăn 'làm răng' thì đã có mạ lo. Mạ lo, là 'lo ăn cho đủ  đến khi giáp hạt.

Chỉ rứa thôi,  khi cái vòng lo toan không bị ông trời làm cho trắc trở thì con nhà nông thở ra nhẹ nhõm. Cũng là lúc cái "vòng đời" lam lũ tính đủ một năm tròn mong sức người vẫn còn dẻo dai để cấy cày làm ra hạt gạo. Mong làm răng thoát cái cảnh nước tràn vô đồng mà chảy băng băng làm ngọn lúa không ngóc đầu lên được. Đó là lúc trời còn giúp cho con nhà nông lo toan đủ hai vụ cấy cày. Đầu mùa gieo mạ cấy lúa, cuối mùa gánh về nhà những gánh lúa được mùa nặng hạt. Trời còn thương thì người làm ruộng chẳng màng chi tuổi đời chồng chất, tưởng sức mình như đeo mãi với ruộng lúa con trâu...


Chuyện ngày xưa, chuyện những ngày giáp hạt, đó là lúc con người chân lấm tay bùn vẫn mãi bấm bụng nhịn cho qua cho quen những ngày thiếu đói. Đó là lúc lúa ngoài đồng đang nặng dần những hạt lúa kết tinh từ mồ hôi nước mắt của người nông dân tháng ngày miệt mài trên đám ruộng thân yêu, ươm đầy hi vọng của ấm no trước mắt. Cứ mỗi lúc "qua truông giáp hạt" đó là vòng tuần hoàn của một năm tròn. Rồi bác nông phu bấm đốt tay tính thêm được một tuổi đời hay vòng trần thế già thêm mười hai tháng.  Bên mảnh đất thân yêu muôn thuở, bên mái tranh ấp ủ tình quê, cạnh bụi chuối bờ tre người nông dân vẫn mãi tấm lòng chung thủy đất-người. Ngày lại ngày qua bốn mùa xuân hạ thu đông 'cày sâu cuốc bẫm'. người làm ruộng chỉ một niềm mong đợi đơn sơ 

 "Ăn sao cho đủ tới khi GIÁP HẠT !"

Thế thôi, một đời dân dã, đơn thuần người miệt quê chẳng ai biết mong chi lâu dài hay cao sang hơn nữa. Qua bao nhiêu năm hay nhiều đời con cháu tiếp nối, sau lũy tre làng lòng người dân quê chỉ ngần ấy ước mong. Nhưng rồi mỗi khi gió thét mưa gào, nước chảy băng băng, đó là lúc lòng người chỉ biết nhất tâm cầu nguyện ơn trời. Cho đến khi trời êm lụt hết, tình quê vẫn mãi nồng ấm tràn trề không hề thay đổi. Người làm ruộng vẫn miệt mài một nắng hai sương chắt chiu tháng ngày bên bờ mương thửa ruộng trong tình cảm thủy chung cho đến khi sức tàn lực kiệt, trọn kiếp con người./.


Đinh hoa Lư edition 


2/8/2025

CHỈ CÒN LÀ CỐ HƯƠNG (PHẦN 2)

 theo Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) của John E. Steinbeck dịch thuật: Đinh hoa Lư  …..(tiếp theo PHẦN I) Ruthie và Winfield 2 em củ...