Friday, May 26, 2023

CHUYỆN CHIẾN TRANH CỦA QUÊ HƯƠNG QUẢNG TRỊ-NHỮNG CÁNH "CHIM SẮT" TỪNG BAY QUANH CHÀO THÀNH PHỐ



A4E SKYHAWK / Ó TRỜI


Chiến tranh vẫn sôi động. Nó đến quá gần khi hàng đêm bà con mình nằm nghe tiếng hú của pháo 122 ly vẫn rập rình đe dọa người thành phố. Học sinh QT vẫn gắng ôn bài hàng đêm khi kỳ thi tú tài đến gần. Bao nhiêu giấc ngủ người mình chẳng yên. Chuyện hàng đêm sao mãi hồi hộp canh chừng mỗi lúc nghe tiếng pháo bên kia đang xé gió rơi vào Thành Cổ, cả nhà liền lao nhanh  xuống hầm trú ẩn.

Hàng ngày mọi người thành phố vẫn không quên chuyện xúc thêm thật nhiều bao cát chất dày thêm cho cái hầm tránh pháo. Sợ hãi, ám ảnh,  càng lúc càng tăng do chiến tranh, cụ thể hơn là pháo bên kia rót vào thành phố càng lúc càng dày. Người xóm tui, quả thật tiếc cho cái nhà ngói mới xây chưa kịp ăn mừng tân gia. Đó là nhà của bác Nguyễn thành Ngô làm nghề y tá trong thôn. Mới vừa rồi nhà O Hoài bị pháo bên kia rót trúng, pháo không vào thành cổ mà nổ vào nhà O khiến đứa con trai chết oan. Phía Cửa Hữu tức là cửa thành Đinh Công Tráng, Tiểu Khu vô ra, nghe tin nhà giặt ủi cạnh Trường Nam bị pháo rót trúng...còn nhiều nhà dân nữa, toàn bị pháo rót oan khiên... Chết chóc tang thương, biết kêu vào ai, kiện ai thật là chuyện đau khổ của người dân thành phố khi "trời kêu ai nấy dạ". 

Con đường Lê Văn Duyệt tiếp đến Duy Tân rồi lên trường Trung Học Nguyễn Hoàng sao quá thân quen.  Nhưng có thứ thật lo thật buồn do không gian không còn an bình khi tiếng gầm rú của mấy chiếc C130 bên kia phi trường Ái Tử lên xuống liên tục. Tuổi học trò có thể rời bàn tay cầm vở khoác áo  kaki bất cứ lúc nào khi chiến tranh lên tiếng gọi? Nó đến thực sự, từng giờ, từng ngày, càng lúc càng căng thẳng. Dẫu sao tôi vẫn cố gắng, vừa đi học vừa lẩm nhẩm ôn bài. Tôi phải gắng sức cho đậu, ít nhất là Tú Một nếu khoác áo chiến y.

       






               F105  THUNDERCHIEF 


F 4C Phantom


Những suy nghĩ không yên, ngắt khúc, dọc đường tới trường hay theo lối Duy Tân về nhà do tiếng động cơ ầm ầm của nhiều phi tuần chiến đấu cơ của không quân Mỹ từ ngoài hạm đội Bảy ngoài biển bay vô. Hàng ngày vẫn thế. Phi cơ phản lực gầm rú bay lên hướng Trường Sơn.  Sau những phi vụ oanh kích, mấy chiếc F4C Phantom mũi đen hơi gập xuống, những chiếc F4B mũi sơn trắng, bay vòng quanh như muốn 'chào' Thành Cổ QT?  Phi cơ bay thấp đến độ mình có thể  thấy được mấy chiếc nón trắng tròn tròn của anh chàng phi công 'xứ cao bồi' nào đó? Những pilot này như đang vẫy tay chào người QT bằng cách chao cánh bay vòng. Mấy phi tuần 3 chiếc, 4 chiếc động cơ nổ ầm ầm... 

sau từng phi vụ trước khi ra lại Hạm Đội 7 hay về lại Phi Trường Đà Nẵng các phi tuần 2 hay 3, 4 chiếc hay bay quanh như chào Thành Phố QT

Tôi là người mê phi công từ dạo đó...ôi tiếng gầm của động cơ phản lực, âm thanh đi sau hình ảnh phi cơ.

Lại có mấy chiếc F105 Thunderchief cái mũi nhọn hoắc hay chào thành phố thân yêu của chúng ta trước khi về lại Đà Nẵng.

Hàng không mẫu Hạm ngoài kia vang danh chiếc Enterprise lênh đênh ngoài biển là nơi xuất phát những phi xuất A4E Skyhawk, F4 B

3 HÀNG KHÔNG MẪU HẠM TRONG CHIẾN TRANH VN CỦA HẠM ĐỘI 7 TỪNG LÊNH ĐÊNH NGOÀI BIỂN ĐÔNG NAY ĐÃ 'VỀ HƯU" LÀM BẢO TÀNG CHIẾN TRANH

                       USS ENTERPRISE

                  USS KITTY HAWK

                         USS MIDWAY


HKMH USS MIDWAY NAY ĐÃ TRỞ THÀNH BẢO TÀNG TẠI SAN DIEGO CALIFORNIA
chương trình Đại Hội Toàn Quốc Đồng Hương QT 2023 sẽ có Ghé Thăm USS Midway vào ngày 3.7.2023



***

  F 105 nó xuất phát từ Phi Trường Đà Nẵng (hình dưới) xem chừng hiếm bay hơn mấy chiếc A4E Skyhawk. Phi cơ hạm đội Bảy vào vùng trời QT thời này phần nhiều là A 4E Skyhawk chúng có cánh hình tam giác. Rồi một thời gian tôi lại thấy vài chiếc B 57 Canberra nữa, nhưng mấy anh chàng này cục mịch quá, không đẹp như F 105 hay ‘ngầu’ như F 4 phantom. Nghe đâu F- 4 cũng đậu tại Phi trường Đà Nẵng.


A 1E SKYRAIDER VNCH


hình dưới: Phi Trường Đà Nẵng với các loại F105 ThunderChief và A1 E Skyraider -A37, F 5E trong cuộc chiến VN



A 37 

F 5 E


Lạ thật sao những năm này tôi mê nghiên cứu về phi cơ như ông già “mê thuốc lào’ đến thế? Những chiếc A 1E Skyraider, A 37 đen  hay F -5E xam xám là của phi công VN.  Phi cơ cánh quạt của VNCH bay qua Thành Cổ hay dội bom mấy làng ven biên như thời đó mình còn nhớ thả bom xuống làng  An Trú hay Gia Độ khoảng năm 1965-66?- Từ thành phố nhìn về làng hướng An Tiêm, chiếc Skyraider của VNCH chúi xuống rồi trái bom màu trắng bạc rơi kèm theo là cột khói trắng hình nấm bốc lên cao...rồi tin chiến thắng hay những trận đánh càng lúc càng gần. QT ngay thành phố cũng chẳng yên do pháo rót vào. Dưới làng lực lượng bên kia dày đặc phát triển đến nổi phải bỏ bom. Các trận đánh càng lớn. Chiến tranh dồn dập.  Căn cứ Ái Tử thành lập ... Phi cơ chiến đấu của Mỹ từ Hạm đội Bảy bay vào càng nhiều hơn. Hàng đêm người thành phố nằm ngủ chẳng yên. Sợ pháo kích, hồi hộp. Tai nghe nhiều hồi bom B-52 trên núi, mặt đất rung rinh liên tục từng tràng dài làm chấn động cửa sổ, chân giường ...rồi căng tai mà nghe tiếng hú của pháo hỏa tiễn 122 ly của họ rót vào Thành

                          F 4 PHANTOM

Bao nhiêu hình ảnh của một thời chiến tranh, trong đó có những cánh chim bằng từng bay vài vòng; đó là tiếng chiến đấu cơ phản lực của đồng minh họ đang chào người dân thành phố, những đôi cánh bạc lấp lánh dưới ánh mặt trời trước khi chúng bay mất hút ra hướng biển.

Ngoài kia là biển, dĩ nhiên không xa lắm. Tôi tưởng tượng có một  Hạm Đội mà cả đời tôi chưa hề thấy được. Nhiều chiếc tàu to lớn bập bềnh trên sóng Biển Đông. Từ đó tung ra những cánh chim sắt cùng nhiều phi vụ xuất kích...



SÂN BAY ÁI TỬ MỘT THỜI RỘN RÀNG

C 130 & KHE SANH KHÓI LỬA 

Đó là một thời chiến tranh. Một quá khứ có những đứa con trai từng tưởng tượng ra một bước đường binh nghiệp trước mắt lúc quê hương lên tiếng gọi. Tôi, thú thật mê máy bay khi còn cắp sách đi học. Đường đến trường- trong đầu ôn bài -miệng mình lẩm bẩm  nhưng hai  tai lắng nghe tiếng ầm ầm của phi cơ.

 NHỮNG CÁNH CHIM TRỜI TỪNG CHAO ĐÔI CÁNH SẮT NHƯ CHÀO THÀNH CỔ MÀ THÍCH ĐẾN NGẨN NGƠ?

Quá khứ qua mau cùng bao dập vùi, biến đổi? Tôi lại nghĩ: giá như mấy con tàu kia "còn bập bềnh" ngoài đó không bỏ đi xa. Giá như ngày đó những chiếc chiến đấu cơ kia còn nghiêng cánh "chào THÀNH" thì hôm nay đâu có một sự thật khác xa như vậy.

Không biết có phải vậy chăng? 

Đúng, sai tôi  không dám quyết, nhưng giấc mộng ngày xưa "đi mây về gió" bất thành: ĐÓ LÀ SỰ THẬT mà thôi./.
 

KÝ ỨC ĐHL  4/9/2019
edit 26.5.2023 by ĐHL

LEON TOLSTOI: CHUYỆN HAI CON NGỰA

 









Có hai con NGỰA cùng chở đồ cho chủ. Một con thì siêng năng luôn cố sức chạy nhanh, còn một con do lười biếng nên chậm hơn. Thấy thế, Chủ mới lấy bớt đồ trên lưng con ngựa chất lên thêm cho con chạy nhanh. Con ngựa chạy sau lại còn thấy thoải mái hơn nữa, nó hiu hiu tự đắc nói với con chạy trước:

-Thật là vất vả nhọc nhằn cho bạn biết chừng nào? Bạn thấy không, bạn càng gắng sức thì bạn càng chịu khổ thêm đó thôi!

Đến một quán rượu bên đường, người CHỦ mới chợt nghĩ ra: 

-        Ủa ! sao ta phải cho cả hai con cùng ăn khi chỉ có một con chở hàng thôi cà? Ta nên cho con chở hàng ăn no thỏa thích, còn con kia nên giết phứt đi, ít nhất là tiện cho ta đem ngựa đi dấu được dễ dàng.

Nghĩ như thế xong, Chủ ngựa liền ra tay thực hiện./.

***

Trong đời có đôi kẻ lười biếng chuyên trốn tránh công việc để  mong thư thả và hưởng thụ. Nhưng trước sau gì sự lười biếng vô tích sự này sẽ đem lại hậu quả tiêu cực thôi.  Đã lười biếng trốn tránh nhiệm vụ nhưng lại làm khổ tha nhân, sống vị kỷ trên đau khổ người khác. Kẻ lợi dụng và buôn bán thời cơ thường có cái tâm bất hảo. Đã là bất hảo thường có hậu quả đau khổ do mình gây ra.

 Cuộc đời này thường là nhân quả báo ứng là vậy, nếu ta siêng năng, cần cù làm việc và sẵn sàng chịu trách nhiệm cùng thẳn thắn với trách nhiệm ắt hẳn  hưởng được tương lai tốt đẹp và càng chứng tỏ sự hữu dụng của bản thân ta.


ĐHL chuyển ngữ 


The two horses

Two horses were carrying two loads. The front horse went well, but the rear horse was lazy. The men began to pile the rear horse's load on the front horse; when they had transferred it all, the rear horse found it easy going, and he said to the front horse: "Toil and sweat! The more you try, the more you have to suffer." When they reached the tavern, the owner said; "Why should I fodder two horses when I carry all on one? I had better give the one all food it wants, and cut the throat of the other; at least I shall have the hide." And so he did.

Source: Fables, Leo Tolstoy, 1828-1910 (Copied from Robert Greene)

 


NHỚ TRIÊNG BÚN XÁO NGÀY XƯA



(bài edit lại)

Bạn đọc thân mến

Từ hình ảnh Chiếc Xe Phở năm xưa dưới khung trời Quảng Trị được nhắc lại trong niềm nhớ dịu dàng nhưng da diết lại được sự hưởng ứng từ những đồng hương Quảng Trị và đồng môn Trường Trung Học Nguyễn Hoàng.

Nào cái tên "Phở Ôn Ngẫu, Hột Vịt Lộn ôN BA ở Xóm Cột Điện 192...

BÁNH ƯỚT BÁC ĐỘI, BÁNH TRÁNG NHÀ ANH HOÀNG Ý Cửa Hậu, còn có Bún Bò Xáo của Mụ Đức xóm Heo, 

Rồi bạn đọc đồng môn còn góp ý thêm: Có cháo Bánh Canh vịt của THÍM HIA vợ thầy Bồi xóm Heo,  có ĐẬU Hũ CỦA NHÀ hai CHỊ THA BA. Có Bánh Ướt nhà chi Nghệ em anh Nguyễn Lam Ty Tiểu học QT , nhà TỐNG THỊ HUÊ cũng có bánh ướt, - quán THIỆN TÍN: Bún, Cháo lòng, cháo bò, tiết canh, món nhậu ...
Rồi "Chiếc xe phở này đẩy bán khắp thị xã. Có lẽ đây là cái xe phở độc nhất của thị xã QT. Chừ vẫn còn nhớ cái thơm ngon của đĩa xí quách phở vào buổi chiều tối" 

Người khác lại nhắc thêm "Ôn Vọi ni nhớ  xe phở  của ai hè? 
Còn phở của ôn Vịt xóm mình là ôn gánh phở đi bán trên phố.
Tui ăn chừ vẫn nhớ mùi không nơi nào giống phở ôn Vịt .
Nhớ luôn lát chả tron tròn mỏng và những sợi tiêu mịn rắc lên trên ..nước pho trong veo.."
Còn nhiều lắm nhắc không hết nói chẳng vừa, nhưng tựu trung qua nét ẩm thực của những gánh hàng rong đơn sơ hay vài ba cái quán bình dân khiêm nhường trong xóm nhỏ ngõ kiệt đìu hiu đã nhắc chúng ta những người CÒN LẠI cùng hoài niệm về một khung trời kỷ niệm nay đã thực sự tiềm ẩn tận đáy lòng.
Thời gian lạnh lùng trôi xa về vùng kỷ niệm. Những mệ những o những chị năm xưa nay phần nhiều đã nắm tay nhau về khung trời miên viễn để lại trong ký ức chúng ta một khoảnh trời thương nhớ nằm sâu dưới mấy tầng cát bụi thời gian.
Chuyện gần nhất của người viết đó là  nhớ lại một ngày, người anh rể bên vợ- anh Lê hữu Bang (anh của Thầy Lê hữu Thăng- anh Bang đã quá vãng) có một ngày nọ anh từ Sacramento về San Jose thăm gia đình ĐHL do bà xã của Anh là chị em bạn con dì với bà xã người viết
Tác giả cứ nhớ mãi lời tâm đắc mộc mạc  và rất thật lòng của anh Bang diễn tả khi ăn tô bún xáo nấu theo kiểu Quảng Trị. Anh cho rằng...
-Ăn bún bò QT phải và xong một miếng rồi cắn trái ớt thật cay vô mới đả, ăn răng mới đúng 'gu' của hắn là miềng phải hít hà nước mắt nước mũi ròng ròng mới được mới đúng là 'mốt"  ăn bún xáo...

Thế mà thời gian qua quá mau, anh đã ra đi do tuổi già sức yếu (11/2021 tại Sacramento Cali) không còn cơ hội mời anh ăn tô bún QT thêm lần nữa. Thương và nhớ anh Bang thiệt tình. Ước mong chi anh Bang chừ còn tại thế  để vc người viết mời anh về nhà ăn lại tô bún quê hương.

ĐHL xin tiếp nối một bài viết miêu tả Triêng Bún Xáo Mụ Đức mà chị  Lê thị Thạnh (phu nhân của anh Nguyễn Bích 'em Đại Tá Bé XDNT ) vừa nhắc ở trên

                                                 ***




Thời nay khi nhìn lên màn hình TV nhất là Youtube có nhiều chương trình ẩm thực của VN rất đặc sắc, đa dạng.  Nhưng nhìn chung sự phong phú, đặc sắc này phần nhiều đều nhờ vào sự giàu có về vật thực, dễ dàng phương tiện mọi mặt để hình thành nhiều món ăn độc đáo.

Ngày xưa có những nét độc đáo ý vị của món ăn nhưng lại bị 'ép mình' vào trong vấn đề nghèo, hạn hẹp phương tiện cũng như vật chất.  Nhưng trong bao nét mộc mạc ngày xưa lại toát lên tính khéo léo, nhẫn nại từ bàn tay nội trợ của người phụ nữ Việt Nam những người  mẹ, người chị dấu yêu muôn thuở.


NHỚ TRIÊNG BÚN XÁO

   Triêng bún xáo hay gánh bún xáo là hình ảnh quen thuộc cho khách ăn hàng vặt. Bữa sáng, bữa chiều đều có triêng bún do các o gánh đi bán rong dọc mấy con phố hay đầu thôn, cuối kiệt  ngoại ô.

Người Huế chắc ai cũng quen mắt hình ảnh triêng bún xáo. Người Quảng trị cũng chẳng lạ lùng chi cái cảnh mấy o, mấy chị vừa chạy lúp xúp vừa rao:

-Ai bún bò?

Tiếng rao có khi bị mấy o rút bớt,

-Ai ...bún?

Nhưng chẳng hề chi, nghe tiếng o là khách ăn biết ngay rồi.

Khó diễn tả cái động tác o gánh 'triêng' bún ra sao? cũng không phải chạy, nhưng đi lại không phải đi? Thứ động tác hai chân o làm sao cho chiếc đòn gánh cong cong, vẫy nhịp thật đều theo bước chân, vừa nhanh vừa nhẹ bớt sức nặng trên vai. 

Có điều nguời viết muốn mô tả cho thật rõ ràng, o chẳng khi nào "trở vai" khi gánh. O chỉ thuận một bên vai. Những lúc có khách là lúc gánh bún đuợc đặt xuống cho vai o đuợc nghỉ, thế thôi. Có thể vai bên phải, o đã chịu đựng lâu ngày nên thành thói quen. Nhắc chuyện "trở vai" của người xưa gồng gánh nuôi chồng đợ con, người viết mới nhớ thương mạ mình. Những ngày nghèo khổ sau cái Tháng Tư Đen não nùng kia, ngày hai buổi chợ, quảy gánh truân chuyên, tuổi già lận đận với cái đòn gánh đè vai mà sức trai sau ngày tù tội chẳng làm chi nên hồn để giúp đỡ mẹ cha?

Thôi, tôi xin trở lại chuyện triêng bún xáo quê mình...

Tôi không bao giờ thấy mấy o người Huế hay ngay cả Quảng Trị bận áo cụt đi bán hàng. Gánh triêng bún ra đuờng là các o bận áo dài. Ngày xưa là vậy, đàn bà đi chợ, hay ra khỏi nhà là có cái áo dài; có cũ chi cũng có cái áo dài. Những chiếc áo dài bạc màu, sờn rách theo năm tháng o ruổi rong theo 'cơm gạo áo tiền' nuôi sống gia đình. 



Nhớ làm sao những tô bún bình dân, đáy nhỏ miệng to ngày xưa đó. Khách ăn hàng đủ hạng người. Người có tiền thì ăn tô 5 đồng, ai bình dân thì ăn tô 3 đồng; thậm chí con nít o cũng bán cho "chút chút" nửa tô 2 đồng. Gánh bún xáo của o bán đủ giá; o không hề than vản và khách ăn chẳng ai 'nề hà' chi. O vẫn chiều lòng khách. 





Ôi thương bàn tay của O răng mà quá khéo đi.  O múc theo đồng tiền của khách. hai, ba, nhiều nhất là năm đồng. Bạn đọc nhìn lại hình ảnh mấy đồng bạc xưa mà tưởng về ngày xưa thân yêu trìu mến...Vài lát thịt bò pha gân thôi, nhai sần sật mà răng ngon lạ ngon lùng. Hai ba miếng huyết. Đã kêu là bún bò thì không thể nào thiếu lát huyết. Rồi tiếp theo là chi nữa? Làn nuớc mỡ đỏ thẳm nằm trên, chưa và miếng bún vào miệng đã cảm nhận mùi cay rồi. Tiền nào của đó. Biết vậy, nhưng giá nào cũng trân trọng tô bún từ tay o đưa cho. Một chút hành ngò rau răm cắt mịn, o bỏ thêm lên mặt, chính xác, vừa đủ, thế mà thiếu nó là biết ngay. Từ cọng bún, miếng thịt, tí huyết, chút nuớc màu trên mặt, trái ớt, (cho nguời ghiền cay), rắc chút tiêu và thứ rau răm cắt mịn là điều bắt buộc sau cùng. Bàn tay lẹ làng và chi ly chính xác của o phải là điều bắt buộc. Bạn có biết răng không? Cái đích cuối cùng là o phải kiếm ra gạo ra tiền để nuôi trong nhà. Một gánh "giang sơn" của O theo ngày tháng ruổi rong chất chứa bao nhiêu là mong ước đồng lời đếm theo từng ngày. Tất cả đợi mong đó đều dựa vào bàn tay dịu dàng nhanh gọn của o.

Triêng bún xáo, chiều chiều vẫn bốc mùi thơm thoáng qua lỗ mũi bắt mình phải thèm thuồng. Chính đó là mùi thơm rất riêng của nồi bún xáo. Mỗi lần o giở cái nắp nồi lên,  từ cuối gió khách chờ mua, biết đuợc gánh bún o tới rồi...


Những thứ thịt bò loại rẻ tiền, bạng nhạng 'nhiều mỡ ít nạc'. O chỉ ưa mua về loại hai loại ba này thôi. Vừa có đồng lời, vừa hợp với một thứ gọi là 'bún xáo'. O nói: 
     

   - Thịt bạng nhạng, pha chút gân lẫn ít mỡ làm bún xáo mới ngon mới hợp.

 Đúng như rứa, thịt quá tốt, chúng ta hay gọi là thịt thượng hạng chỉ dành cho món bí tết, tiệc tùng hạng sang hay kỵ giỗ. Bữa ăn thịnh soạn như thế tất nhiên không có 'chỗ đứng' trong mấy triêng bún xáo của các o

Người thưởng thức tô bún xáo  sẽ chú ý đến chuyện phân biệt 'xáo bún' là gì? và khi ta đã hoàn thành múc thứ xáo này lên tô bún thì nó nghiễm nhiên trở thành "tô bún xáo". Nói như thế để giới rành ăn sẽ đòi hỏi rằng nước súp phở hay những thứ khác không bao giờ thay thế để làm tô bún xáo được



 Đưa tô bún nho nhỏ, vừa tay, lên miệng; khách ăn sẽ ngửi được mùi thơm nước xáo đúng 'gu' do tay người miền trung nấu không lầm vào đâu được.  Thoang thoảng mùi rau răm, tiêu và miếng bún nức mùi xáo vào miệng.  Rồi khách ăn sẽ cảm nhận được lát thịt bò xần xật giòn, bùi bùi, xen một lát huyết đậm đà, beo béo. Người thưởng thức, vừa nhai vừa cắn miếng ớt chìa vôi thơm, cay nồng xông lên tận hốc mũi



Cảm giác đói, thèm, càng tăng khi gánh bún của o còn mãi đàng xa, do o đang bận khách. Chiều chiều ai cũng chờ, cũng trông gánh bún đi qua. Dọc phố, các chị , các mệ cũng đợi gánh bún các o đi ngang. Có mấy o là có bữa sáng tới rồi. Mùi bún xáo phố Huế hay phố Quảng nào cũng giống nhau. Khách ăn của mấy o không bao giờ chê, chẳng bao giờ ngán mới lạ làm sao?

Có phải huơng vị cùng hình ảnh gánh bún xáo mấy o mấy chị ngày xưa đã thẩm đượm vào phong cách ẩm thực của người trung bao đời nay chăng? Người ta chẳng hề quan tâm, chỉ một tâm lý vắng gánh bún xáo ngày đó thì nhớ và thèm đó thôi.

Cái nồi tròn nhôm một đầu, đầu kia là tô, đũa hay những thứ linh tinh, lỉnh kỉnh. Mọi thứ đều cũ kỹ trước mắt khách đợi. Khi nắp nồi xáo được o giở lên, cái vá nhẹ nhàng, chính xác chi ly o chan từng thứ lên tô bún; mùi thơm của nước xáo không lầm lẫn vói bất cứ loại món ăn nào làm khách ăn nhớ đòi.

Một thời, khi cái từ "kéo ghế" chỉ dành cho những cơ hội hiếm hoi vào tiệm trên phố; thì  những triêng hàng ăn là hình ảnh thân quen cho thực khách bình dân. Những mệ những o...người viết nhớ làm sao mấy triêng hàng tháng ngày kẻo kẹt dọc theo từng con hẻm hay men theo mấy con đường dẫn vào xóm nhỏ. Trong những hình ảnh xa xưa đó, triêng bún xáo dường như  "bất tử' trong lòng chúng ta phải thế không thưa bạn đọc?

Đinh Hoa Lư
edit 26.5.2023

Thursday, May 25, 2023

MÙA XUÂN LÁ KHÔ


XUÂN 1975 cái TẾT thứ ba trong đời binh nghiệp 


   TRÊN ĐỈNH QUÊ HƯƠNG


Tôi trở lại vùng hành quân vùng xa xôi đá sỏi biết buồnBa tháng hậu phương yên bình tuy vết thương chưa lành hẳnTôi lại đi giữa lạnh sang ĐôngĐời tôi chinh chiến lâu năm, yêu lúc băng rừng như mộng tình nhân...

(Mùa Xuân Lá Khô/ Trần thiện Thanh)

***
    Mấy tháng cuối thu 1974 cả tiểu đoàn đau "rạt gáo"  do một chứng sốt tràn lan một cách lạ kỳ trên vùng Động Ô Đô. Lính bị bệnh cáng về hậu cứ càng lúc càng nhiều. Từ đó quân số Tiểu Đoàn 105 thiếu hụt trầm trọng. Trung đội tôi chỉ còn khoảng hơn hai mươi người. Tính theo đơn vị nhỏ nhất là tiểu đội đôi khi còn ba, bốn người thôi. Thiếu quân như thế, làm sao gác giặc? Hằng đêm chúng tôi phải thay phiên gác tới hai ca. Ca một từ 6 tới 8 giờ tối thì ca hai từ 4 tới 6 giờ sáng...  Sốt rét và thiếu ngủ và thiếu cả cái ăn làm lính càng yếu sức thêm. Tôi tuy là trung đội trưởng nhưng chỉ khỏi gác khi quân số đầy đủ. Tình hình sốt lan tràn toàn vùng Ông Đô, nơi nào cũng thiếu lính không riêng gì trung đội tôi.

Trước khi kể lại chuyện xưa, chuyện một "Mùa Xuân Lá Khô" một đề bài do người viết cảm hứng từ bản nhạc của NS Trần thiện Thanh, tôi cũng đính chính một chút về cái tên "Động Ông Đô" thật ra ngày trước người Quảng Trị mình gọi là "Độn Ôn Do" mà tiếng "Do" người Mỹ đọc trên bản đồ là "Đô" và sau này các đơn vị QLVNCH thì theo vậy mà gọi. Chỉ có một lần ngày xưa còn nhỏ tôi thường nghe người làng Nại Cửu như cậu Võ Thế Hòa (Dâu) thường bàn tán nhau "chèo đò lên Trấm lên độn Ôn Do" kiếm củi...



 Tác giả vốn đã ốm, vướng sốt nên càng lúc càng gầy rọc đi. Đêm đêm trong người mãi sốt ngầm, tóc rụng nhiều. Tôi vẫn bám chốt, vẫn gác 2 ca hàng đêm. Quân số càng lúc càng thưa do lính khai bệnh về hậu cứ. Phần tôi dù cố gắng chi rồi cũng 'chống gậy' theo xe tiếp tế tiểu đoàn về Bệnh Xá Tiểu Khu.

Nói ra thì nghe khá lạ lùng? sao lại "chống gậy" lúc mới 21 tuổi đời? Số là sốt quá, tôi mắt lúc nào cũng hoa lên, cảm giác sẵn sàng nôn ói?  Hơn hai tháng trời không có chất gì trong người. lại phải canh chốt, thức ngủ thì làm sao không chống gậy cho được?


Tiểu Khu QT đóng tại cồn cát Diên Sanh. Lúc này ông Trung tá Đỗ Kỳ làm Tiểu Khu Trưởng. Vào năm sau Ông Kỳ lên đại tá- là "dân" TQLC thì họ biết tin còn chúng tôi ở trên núi chẳng nghe tin này. Thật ra ông Đỗ Kỳ ít được người Quảng Trị biết nhiều. Đại Tá Đỗ Kỳ làm TK Trưởng do cả sư đoàn TQLC đóng tại QT là chuyện hợp lý.

Trở lại chuyện tôi, về được bệnh xá Tiểu Khu, nhưng để lại một trung đội thiếu quân số, thiếu mọi thứ...những anh em khác đau quá về trước tôi. Đến phiên người trung đội trưởng về sau hết. Ngày đó quả thật tôi ốm quá người quen chẳng nhận ra:

``-Ui chao, mi đó Phúc?!

 Người nhà của Trần Tài, bạn cùng xóm trước đây bất ngờ gặp tôi đều thương cảm thốt lên như rứa. Bác Cai Trà, mạ hắn hay anh hắn đều ở Khu Thị Tứ trước mặt Tiểu Khu. Cả một vùng đóng trên cồn cát Diên Sanh. Bà con cố cựu đều là dân thị xã trước đây cả. Người cùng xóm cũ, quả thật ai cũng ái ngại, thương cho tôi hoàn cảnh xa gia đình cha mẹ. Nhà tôi tất cả đều di dân vào nam rồi.











Em Gái Hậu Phương & Tiểu Đoàn 105 TKQT tại Cầu Ba Bến 1969 (2 đại úy Lê kim Chung và Trần quang Hiền người giữa) Thời gian này tác giả chưa ra đơn vị 

*
 Lúc nằm bệnh ở đây tôi biết Ông Đại Uý Quân Y Hoàng Trọng Mộng làm trưởng Bệnh Xá. Tôi biết ông bác sĩ Mộng do Ông là "người tình" của dì tôi. Khi hai người có đứa con gái tên Hoàng thị Mộng Hằng thì dì tôi và gia đình đã ra đi theo chương trình Khẩn Hoang Lập Ấp.  Đứa con gái dì tôi nay ở Trị An, sau này cũng liên lạc được với cha mình.  Ông Hoàng trọng Mộng sau 1975 được tái hành nghề bác sĩ tại Sài Gòn cho đến khoảng gần năm 2020 thì mất.  Ngày đó nằm bệnh xá, ông Mộng có xuống thăm thương bệnh binh. Thật tâm tôi chẳng muốn nói hay nhìn quen biết làm chi. Tôi về nằm bệnh ở đây là hợp lý chẳng cần "thân quen hay xin xỏ" ai nữa. Nhìn người tôi lúc đó- ốm tong teo, xanh xao do sốt rétthiếu ăn, mất ngủ như rứa thì ai mà không cho nằm viện?

Nằm tại Bệnh Xá được năm mươi lăm ngày, tôi dần hồi khỏe người vui vẻ trở lại. Ngày ngày vào câu lạc bộ tiểu khu, vui quá nói chuyện huyên thiên đến nổi có bà ngoại mẹ người chủ rầy la "sao ồn quá". Hết bệnh tôi cầm tờ giấy phép vào tận Mỹ Tho thăm gia đình. 

Tôi có ghé Bình Tuy thăm bà con ở Động Đền. Động Đền là một cái tên của một vùng chứ không phải tên thôn hay tên xã nào cả. Động Đền là một vùng từ múi đầu của tỉnh lộ 55 chạy đến chân dốc xã Tân Sơn thuộc Quận Hàm Tân, Bình Tuy hồi đó.

 Người QT năm 1974 đã vào Bình Tuy hơn một nửa, chỉ một phần ba hồi cư về lại QT thôi. Tiểu Khu QT cũng chia đôi để đi theo Chương Trình Khẩn Hoang LẬP ẤP

Tôi ghé thăm vùng đất mới Động Đền vỏn vẹn hai ngày nhưng nhiều ấn tượng. Hình ảnh những cánh rừng mới bị chặt hạ ngổn ngang trên vùng đất cao xã Tân Sơn. Có mấy cái quán tranh bán cà phê nho nhỏ trước cái chợ có tên Động Đền. Những mái nhà tôn xi măng và tranh xen kẽ. Đi đâu cũng là người là người QT. Bà con gần nhau, đùm bọc nhau mà sống. Năm này chỉ có bà con ngoại tôi ở đây. Dì kế mẹ tôi có mở cái quán cà phê cũng lợp tranh tại chợ Động Đền. Cái quán ngó qua con đường tỉnh lộ 55 là quán tiết canh. Mệ bán tiết canh một thời nổi tiếng tiết canh ở chợ Sãi QT trước 1972. Nay mệ mở quán, bà con đặt cho cái tên là "Quán Mệ Tiết Canh". Năm 1974 người QT Khẩn Hoang Lập Ấp vào đây, than củi bán mua còn tấp nập. Cà phê bán cũng đắt khách do người dân còn trợ cấp, còn tiền làm than rồi đất đai mới khai hoang nông sản dồi dào. Trường học như tư thục Thanh Linh do Linh mục Nguyễn vân Nam làm hiệu trưởng. Bên cạnh đó trường học công do chương trình Khẩn Hoang Lập ấp BS Phan Quang Đán tài trợ mở mang từ Động Đền cho đến các xã trên cao như Sơn Mỹ đều được xây bằng xi măng lợp tôn vững chắc...

Gia đình ba mẹ tôi một năm sau tức là sau 1975 mới giã từ Mỹ Tho để về Động Đền. 

Hết phép mười lăm ngày, tôi ra lại miền trung  đúng vào dịp Noel 1974. Trước khi lên núi lại, tôi có hai ba ngày, lẩn quẩn về  thăm xã Hải Thọ thăm nhà mợ tôi. Cậu Võ Hoa tôi làm Phòng Ba/ TKQT và mợ tôi cũng là người Diên Sanh. Nhà mợ Lành gần ngã ba vào Chợ Diên Sanh. Vùng này một thời ai cũng biết người anh của mợ tôi. Anh ấy tên Xíu; người to con vạm vở, sức mạnh vô cùng. Sau này anh mất sớm.

 Ngày đó tôi dắt đứa em gái, con đầu của cậu mợ tôi- Võ thị Sớm Hồng- mới hai, ba tuổi đi vào Chợ Diên Sanh. Ai cũng ngỡ ngàng: 

-A Ôn Ch. Úy có con, mà răng còn trẻ dữ rứa?

 Ra trường vào cuối tháng 11 năm 1973, tôi đúng hai mươi tuổi đời, còn độc thân. Chuyện lập gia đình quả là xa vời, thật lòng tôi chưa bao giờ nghĩ đến.  Ngày đầu tiên trong đời binh nghiệp, từ Quân Trường Đống Đế tôi là người đầu tiên trong khóa  tình nguyện chọn về lại quê hương Quảng Trị. Cả khóa đứa nào cũng vỗ tay cho là 'anh hùng'? tôi đâu phải là anh hùng, do tôi chỉ muốn về lại quê hương mà thôi.

 Những ngày trình diện đơn vị mới là mùa Giáng Sinh 1973. Đúng một năm sau, mùa giáng sinh 1974, tôi đi phép bệnh và ra lại TKQT trả phép. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi đi phép đơn vị. Một cái phép "bất đắc dĩ" do nằm bệnh non 2 tháng mà có.  Tôi vào nam xong ra lại Đà Nẵng thăm cậu tôi- Đại Úy Võ Bình, binh chủng Lôi Hổ đang đóng tại Sơn Trà. Quà cậu tôi cho là quả lựu đạn mini nhỏ xíu bằng trái cau, bỏ túi phòng thân. Tại sao tôi gọi là "quà" do thứ lựu đạn nhỏ xíu đó chỉ có "dân biệt kích nhảy toán" hay "bóng ma biên giới" mới có, binh chủng khác không bao giờ được cấp phát.

Khác với năm 1973, vào Giáng Sinh năm 1974 người QT tại Hòa Khánh và Non Nước đã hồi cư hay di dân vào nam hết. Các trại tạm cư tại Đà Nẵng không còn. Tôi giã từ Đà Nẵng, vội về lại Diên Sanh.

trường TH Nguyễn Hoàng và khu Thị tứ  1973

*
Tôi chưa vô gấp Tiểu Khu, lại lên Khu Thị Tứ. Khu Thị Tứ lập ngay trước mặt Tiểu Khu QT. Tôi đi  thăm bà con lối xóm mới hồi cư. Nhất là người bạn trong xóm Cửa Hậu năm xưa tức là Trần Tài. Tài là con út của ôn mệ Cai Trà, Phường Đệ Tứ QT cũ.  Tôi vào nhà Tài. Lúc này còn gặp mẹ Tài. Gạo hồi cư 6 tháng cũng vừa hết. Bà con sống nhờ vào đồng lương lính hay công chức quá eo hẹp không biết làm sao sống trên cồn cát trắng phau? Có thể bà con giờ này ai còn sống cũng có thể quên những ngày 'cơ khổ' lúc hồi cư? Gạo thiếu củi hết? những cồn cát bới tung hết rễ sim mốc làm chất đốt, nhưng rồi dần dà cũng cạn kiệt? Đời sống phải giảm thiểu từ ba bữa ăn trở thành hai bữa ăn tức là lúc 10 giờ sáng và 4 giờ chiều. Đó là chương trình hồi cư thì chỉ biết là hồi cư nhưng sống ra sao thì không ai tính trước cho người trở về Khu Thị Tứ.

TKQT và khu Thị Tứ Hải Lăng 1973

*
Đó là những gì gọi là đời sống bà con cố cựu của tôi khi tôi về đơn vị. Vào hậu cứ Tiểu Đoàn 105 chờ xe tiếp tế lên núi để đi theo. Tôi không đợi quá lâu vì mỗi tháng đều có ba chuyến tiếp tế lên đơn vị.

*

Chiếc GMC của tiểu đoàn 105 ì ạch mò quanh co theo con đường sơn đạo lên hướng Ô Đô mất gần nửa ngày. Tất cả mạch sống của mấy tiểu đoàn hướng núi chỉ nhờ vào sơn đạo này. Làm gì có máy bay vào lúc này hoạ chăng TQLC còn may ra. Lính Địa thì mong chờ vào hai bàn chân và mấy chiếc GMC của TK tuy cũ kỹ nhưng là người tiếp vận đắc lực cùng trung thành nhất.



              CĂN CỨ ĐÔNG Ô ĐÔ 



Men theo những triền tranh tôi về chốt trung đội. Anh em gặp nhau mừng vui hỉ hả như thể người thân vừa về lại  nhà. Tội nghiệp tôi chẳng có quà gì cho anh em ở lại. Đi bệnh viện về có gì đâu ngoài cái thân  ốm "còm nhom" đó thôi.

Trung đội phó tên Thản suýt xoa kể cho tôi nghe chuyện đêm kia khi nghe quả lựu đạn gài dưới chân đồi phát nổ ra sao? Tất cả Trung đội lên đạn sẵn sàng, tưởng sắp bị đánh?

 Đó là một đêm vắng mặt tôi, người trung đội trưởng. Sáng dậy một người bò xuống chốt. Té ra con mang bị vướng lựu đạn chết oan. Được mười mấy ký thịt- chất tươi đàng hoàng.  

"Tiếc quá không có mặt ch. uý liên hoan một trận cho đả"


Trung đội phó Thản vừa kể vừa phân trần. Phó Thản  vác sang đại đội trưởng Lê Kim Chung một cái đùi sau, còn chia cho 2 chốt tiểu đội kia...

-Vừa xong thì chuẩn uý lên...

Tôi không nhớ có cám ơn tấm lòng anh em trung đội hay không?  chỉ tiếc là chưa thưởng thức hương vị thịt mang ra sao? xưa tôi hay nghe "Mang lạc là mác làng" không biết lành hay dữ?

Nhưng mà ở chốn núi rừng, có nhiều đêm tôi hay nghe mang 'tác' rồi có sao đâu? động trời thì mang nó tác chẳng có chi lạ.

***

Trời sắp đón xuân 1975 hay cái tết đầu tiên tôi đón xuân trên miệt núi. Tết 1974 đơn vị tôi đang đóng ở cầu Ba Bến. Tôi thì giữ cái cầu Tham Triều. Ngồi bó gối trong cái hầm bên cống Tham Triều mà nhớ gia đình ba mẹ anh em đang ở tận trong nam.

Giờ thì Xuân 1975 về rồi. Ban ngày từ chóp núi, tôi ngắm về đồng bằng. Dưới tầm mắt tôi là cả một mãng mù sương. Ngày nào quang đãng, hướng mắt về Diên Sanh tôi thấy rõ những viền cát trắng. Những lúc trời thật trong tôi còn nhìn thấy mép đại dương xanh ngọc bích.

Ban ngày chúng tôi có thú vui là đánh bài xẹp. Bài xẹp gần giống bài tứ sắc. Đó là cái thú tiêu khiển cho đời lính đóng chốt ở đây. Radio nghe riết cũng hết pin mà hết pin thì khó lòng mua được ngoại trừ dùng lại những cục pin cũ của máy PRC 25 tức là máy truyền tin của trung đội. 

Tất cả đều thiếu thốn. Mười ngày mới có một chuyến xe tiếp tế phải tới đỉnh Ông Đô nhận hàng do xe không thể bò tới chốt của từng đại đội được. Từ chốt trung đội tôi có thể men theo đồi tranh đi tắt bằng con đường tự mở để tới chốt đại đội 'ký sổ'. 

Ký sổ có nghĩa là mua thiếu hàng tại chốt đại đội. Nào kẹo đậu phụng nào sữa ông thọ cộng với bột bích chi nào thuốc hút .. những thứ này không thể thiếu. 

Nước uống thì vác ống đạn bò xuống chân núi để lấy nước khe. Đoạn đường nguy hiểm và hồi hộp, nhưng không có nước thì xem như ngồi trên chóp núi mà chết khát thôi. 
Dù nguy  nan cũng phải chia phiên vác ống đạn mò xuống khe lấy nước. Bên chốt kia, có người đi xuống lấy nước bị mất tích luôn? Hạ Sĩ Hoát (hoác?) xuống khe Trai lấy nước, không về? Sau này khi ở tù tại Trại Ái Tử, chúng tôi đi chợ mua rau tại chợ Đông Hà, bạn tù cho hay hạ sĩ Hoát làm phu kéo xe tại chợ Đông Hà. Thì ra ngày đó ông Hoác bị phía bên kia bắt cóc chứ không phải cọp vồ mất xác.


Đủ thứ nghi ngại cho căn bệnh sốt tại miền núi Ông Đô vào thời gian này: co thể do thuốc khai quang, có thể do muỗi vì sao nguyên nhân nào không quan trọng. Chuyện đáng lo là quân số quá thiếu, tiếp vận quá nghèo? 

***

Chuyện đời lính là vậy, còn 'cái mạng' để ngày ngày ngắm cảnh trời trăng mây nước, kể ra cũng còn may lắm.


Một con sông nhỏ, một khám phá lý thú đối với riêng tôi khi dò trong bản đồ vùng tôi đóng quân. Nó mang tên là "SÔNG NHÙNG'. Ngày xưa tôi  quen gọi là "Nhồng'. Cầu Nhồng là cái tên tôi không quên. Thời lớp nhì lớp nhất tôi hay vào Diên Sanh, xe phải qua Cầu Nhồng. Hồi này con đường Quốc Lộ 1 vào Diên Sanh phải qua Hải Thượng tức là con đường cũ. Qua Cầu Nhồng rồi mới đến Cồn Dê trước khi đến Diên Sanh tức là Xã Hải Thọ. 

Huyền thoại về Cầu Nhồng, thời nhỏ tôi chưa quên: người ta kể rằng: thời Pháp qua Cầu Nhồng hay có ma có khi nó xui cho tài xế thấy cả "hai cầu Nhồng" trước mắt và lái tòm xuống sông? Đó là chuyện ma thời xưa khi còn Pháp hay tôi chưa ra đời.  Rồi ba năm 1963-65 khi ba tôi làm tại Chi CA Hải Lăng, người hay lái xe vào Cầu Nhồng.xong đi lên một đoạn ném lựu đạn bắt cá. Có hôm bắt được con cá tràu quá lớn. Con cá nằm sau xe,  khoanh lại to gần bằng cái bánh xe hơi ? 

Hôm nay, Cầu Nhồng có thể đã vào quên lãng khi QL 1 đổi hướng từ Ngã Ba Long Hưng qua Cầu Dài vào tuốt Mỹ Chánh không qua Diên Sanh nữa. Từ thời có con đường mới nối QT tới tận Mỹ Chánh, khi không Diên Sanh trở thành "Thị Trấn Đìu Hìu"!



hơn 40 năm sau Sông Nhùng sạt lở  khiến nhiều căn nhà của người dân nứt nẻ, có nguy cơ đổ sật bất cứ lúc nào (Baomoi.com 12/2017)

Tôi cảm thấy thú vị với hai chữ Sông Nhùng để ngày ngày ngắm nó uốn éo lượn lờ dưới chân núi. Tiếng là sông nhưng chỉ là con suối dài, nước chảy còn mạnh qua nhiều nơi tung nước trắng xoá. Sông và thảm rừng dưới xa, hợp với nhau trông chẳng khác chi một bức tranh thủy mạc. 

***

Đời lính và quê hương đôi lúc tình cảm phát sinh là những lúc lặng ngắm non sông. Năm 1974, chính xác hơn là hè 1974 khi tiểu đoàn chúng tôi rời Ba Bến, chuyển quân về mạn biển hoán đổi Tiểu Đoàn 120. Mấy tháng đóng ở đây, khi lắng tai nghe sóng trùng dương dội vào bờ cát hoang vu cùng ngắm biển trời bao la, tôi cảm thấy tình cảm đối với quê hương dâng trào trong gió lộng. Tiếp nối, đơn vị lại hoán chuyển lên vùng núi. Tôi lại có dịp đứng trên đỉnh cao, trông xuống một dòng sông nhỏ đang lượn lờ uốn khúc. Chính lúc này, tôi mới nhận chân ra quê hương sao đẹp quá, hồn thiêng sông núi ngàn đời mãi xanh!

 Xuân 1975 sắp tới rồi, chỉ hai ba hôm nữa thôi. Một buổi trưa im vắng, tôi lại đứng trên đồi cao.  Quanh tôi toàn là những đám  rừng tranh bạt ngàn. Xuân đơn vị không một sắc hoa đó là điều chắc chắn. Màu xanh của lá màu áo ô liu thay hoa màu tết. Quà tết hậu phương, bánh chưng bánh ú từ Diên Sanh, hậu cứ Tiểu Khu đang được gửi lên.  

Hơn bốn muơi mùa xuân đi qua nhưng lòng tôi vẫn nhớ mãi mùa xuân của một chín bảy lăm. Từ mùa xuân đó tôi vĩnh viễn chẳng còn cơ hội nào đứng trên đỉnh cao để chiêm ngưỡng cảnh đẹp non sông núi rừng hùng vĩ. Dù rằng những mùa xuân biên giới hay "mùa xuân lá khô" đã thật sự trôi nhanh về miền dĩ vãng; nhưng đoá hoa QUÊ HƯƠNG vẫn thắm mãi trong lòng người bao người con xa xứ. Cứ độ tết đến xuân về nơi chân trời góc bể, vẫn còn nhiều người lính già xa quê còn ngồi vọng tưởng đến một thời cống hiến, bên chiến hào xưa chợt dâng lên nỗi hoang lạnh tâm hồn./.


Đinh hoa Lư 
Tái biên & edit 25.6.2023

John E. Steinbeck- ĐOẠN TRƯỜNG DI DÂN (Phần 3)

  tiếp theo phần 2 đề bài do người dịch tự đặt theo XA Lộ 66, con đường di cư xuyên bang của gia đình Joad từ Oklahoma tới California trong ...