ngày 24.3.1975, có một toán phim từ miền bắc qua sông Thạch Hãn để vào Huế, họ gặp toán tù binh của đơn vị ĐHL ngang đoạn Cầu Dài -Bến Đá. Sau đó toán phim đó đã hoàn thành cuốn phim ĐƯỜNG VỀ GP HUẾ. Tác giả có cơ hội copy lại hình ảnh toán tù binh của đại đội 2/TĐ105 TKQT đang bị dẫn ra hướng bắc vào ngày đó. Tối 24.3.1975 toán tù binh đầu tiênnày ra tới Đông Hà và bị tạm giam tại Thôn An Lạc gần chân cầu Đông Hà cũ. Sau đó chúng tôi được về trú tạm tại trường Lai Phước bên sông Lai Phước. Hơn một tuần ở đây, càng lúc càng có đông tù binh từ hướng Huế ra...Khoảng mồng 5 tháng 4, 1975 chúng tôi được dẫn lên hướng Cam Lộ...
đồng bào Quảng Trị từ Phò Trạch chạy ra lại Hải Lăng ngày 24/3/1975
ký ức tù binh của ĐHL
Chúng tôi ... có hai mươi năm làm tuổi trẻ
Chưa bao giờ hưởng trọn một ngày vui
Khi lớn lên quê hương chung lửa đỏ
Tuổi thanh xuân mà lỡ mất nụ cười...(Vũ thành An)
Chưa bao giờ hưởng trọn một ngày vui
Khi lớn lên quê hương chung lửa đỏ
Tuổi thanh xuân mà lỡ mất nụ cười...(Vũ thành An)
QUA ĐÈO BA LÒNG
5/4/1975
Sau khi ngủ qua đêm trong một đơn vị lán trại bộ đội bỏ trống tại Cùa, đoàn tù binh chúng tôi được dẫn bộ theo một sơn lộ đi về hướng Ba Lòng. Con đường đất đỏ quanh co, hai bên còn loang lổ hố bom, đi xuyên qua mấy trảng tranh xanh ngắt. Đi từ sáng tinh mơ khoảng xế trưa thì đoàn tù binh bắt đầu lên Đèo Ba Lòng.
Theo lời cán bộ dẫn tù cho biết: độ dài của đèo Ba Lòng phải tới bảy tám cây số. Đường đèo thì leo dốc, do vậy thỉnh thoảng chúng tôi được nghỉ giải lao. Họ là bộ đội nên áp dụng “luật quân hành”có nghĩa đi bộ một giờ được nghỉ giải lao mười lăm phút. Ngang lưng chừng đèo, chúng tôi được dừng nghỉ sức theo quy định.
Được nghỉ, tôi để nguyên cái ba lô dựa vào vách núi. Vài ngọn đót, mấy vòi mây nước từ trên cao buông vu vơ trước mắt tôi. Tôi lại nghe xa xa tiếng ve núi bắt đầu 'ca vang' đón hè. Trời tháng Tư khí hậu Quảng Trị bắt đầu nóng. Cái áo ka ki của tôi giờ đã thấm ướt mồ hôi. Gần ba tuần , tù binh bị giam tại trường Lai Phước chưa có gì cả? Ai có gì bận đó; đa số còn bận áo lính, chân mang đủ thứ dép. Có điều đặc biệt không ai được mang giày lính?
Có mấy ông cán bộ vc, có thể là cấp úy, họ có bình thủy nước trà mang theo uống dọc đường. Tôi chưa quên một kinh nghiệm khá 'lạ lùng' do những người này chỉ cho tù binh khi lên dốc nên mang ba lô ngược trước ngực, sức nặng sẽ kéo giúp đi lên mạnh hơn. Trái lại lúc xuống đèo, thì đưa ba lô trở lại phía lưng- nó sẽ kéo người lui sau, khỏi chúi người. Thật là thứ kinh nghiệm 'vượt đèo' lạ lùng, lần đầu tiên trong đời chúng tôi nghe được.
Quy định dừng chân tạm nghỉ là mười lăm phút cho một giờ đi, nhưng thời gian nghỉ có khi khá lâu. Mấy người bộ đội này cho biết lên tới đỉnh đèo đổ xuống bên kia là thung lũng Ba Lòng. Sắp tới rồi hay sao? Như thế là đoàn tù này sẽ tới Ba Lòng, cái đích của chuyến đi này.
Tôi tiếp tục dựa lưng vào vách núi ngắm cái hẽm núi trước mắt mình. Vài bóng mây nhàn nhạt đang la đà dưới đó. Những làn mây mỏng không che hết màu xanh của lá cây. Tiếng ve thỉnh thoảng ngưng kêu, trả lại sự im lặng cho núi rừng.
Mới hôm qua, lần đầu tiên chúng tôi ăn củ cây bông chuối (trước tôi gọi là chuối tây), ngày xưa người mình hay trồng làm cảnh. Họ cho tù binh nhổ lên, nấu ăn tối. Té ra chuối tây phần củ của nó khi nấu chín ăn chẳng khác gì củ hoành tinh. Họ bảo đó là cây "cứu đói". Bộ đội ăn rồi trồng lại ngay để bộ đội tới sau có "cái ăn". Đất Cùa quả thật tốt. Những bụi cây bông chuối cao ngang đầu người, rậm rịt, chúng che mất mấy "cái lán" nho nhỏ. Một đơn vị bộ đội nào đó từng ở đây giờ họ đi đâu, chỉ còn lại những túp lều vách đất, trống không?
Bao nhiêu hình ảnh xáo trộn trong đầu...thế mà ba tuần rồi tính từ lúc đại đội chúng tôi tan hàng tại Mỹ Chánh. Mười bảy người được dẫn bộ ra đến bên kia cầu Đông Hà và bị giữ ở đó tại Thôn An Lạc vài ngày. Thời gian này chúng tôi nghe tin Thuận An náo loạn? Tiếp đó Đà Nẵng ...Sau đó họ dẫn chúng tôi vào lại tại một trường học gần cầu Lai Phước, đóng tạm tại đây. Tù binh trong Huế ra càng lúc càng đông. Hàng ngày chúng tôi được ra con sông Vĩnh Phước tắm giặt. Khoảng hai tuần, đoàn tù có lệnh di chuyển. Chúng tôi được dẫn bộ theo đường số Chín lên đến Cam Lộ thì rẽ lên hướng Cùa. Tối qua và đi đến trưa nay thì cả đoàn tù được dừng nghỉ tại đây.
Từ độ cao này tôi định hướng nhìn về hướng dưới kia- Đông Hà hay Quảng Trị một đường ngang của một dãi đồng bằng hẹp, bằng phẳng. Hướng nam trong kia xa hơn. Giờ này thì Huế và Đà Nẵng mất rồi. Hai tuần tù binh trú tạm tại trường học Lai Phước cạnh con sông, tù từ trong đó ra càng lúc càng đông: nhiều thứ lính: từ áo ô liu cho đến rằn ri. Giờ trong nam ra sao? Bình Tuy ra sao? Người ta đồn ranh giới hai bên có thể là Phan Rang? Tôi mong sao được như thế. Nếu được thế Bình Tuy, bà con tôi bà con QT còn thuộc VNCH còn lại...hình ảnh ngày cuối cùng tôi bị bắt. Ruộng Ưu Điềm mới cấy, Làng Siêu Quần- cái làng có đàn muỗi vo ve đến 'chóng mặt'. Về ngược lại Trạch Phổ gần Ưu Điềm bên này sông Ô Lâu nơi nào đồng bào cũng chạy sạch? Chuyến xe tiếp tế cuối cùng và tin chợ Đông Ba cháy đó là những tin tức sau cùng trong đời quân ngũ. Cho đến ngày 23 tháng 3- cái ngày tôi và mười mấy người trong đại đội trở thành tù binh bên sông Mỹ Chánh. Đám ruộng làng Trạch Phổ, Ưu Điềm thuộc Xã Phong Bình có tên trên tấm bản đồ mà người trung đội trưởng như tôi luôn nhét trong ngực. Tấm bản đồ cùng quả lựu đạn mini nhỏ xíu- quà kỷ niệm của cậu tôi cho ngày ra phép cuối năm 1974 tôi ghé tạt qua Sơn Trà, một đơn vị Lôi Hổ- tất cả đều vứt lại tại cánh ruộng mới cấy đó...
Dòng suy nghĩ của tôi dừng lại khi toán ‘quân’ nói đúng hơn là toán tù được lệnh tiếp tục đi. Có vài người kiếm đâu ra thanh cây lụi làm que chống để lên đèo, riêng tôi thì không. Tôi và Ngọc do là hai sĩ quan trung đội nên cùng có nhau trên chuyến đi Ba Lòng này. Có một số khác đều từ Huế ra: Bãi Thuận An, Phú Bài, Trung đoàn 54...chúng tôi chưa biết nhau.
Hơn hai tiếng đồng hồ, toán tù binh đã lên đến đỉnh và tiếp tục đổ đèo. Tầm nhìn bên kia bắt đầu mở rộng trước mắt chúng tôi. Một phong cảnh hoàn toàn khác lạ. Bắt đầu xuống đèo...dưới kia thấp thoáng ánh nước một dòng sông. Thạch Hãn và Thung Lũng Ba Lòng đó rồi chăng?!
Thung Lũng Ba Lòng hôm nay
***

***
Khoảng năm 1960, tôi có theo ba tôi lên Ba Lòng. Nhưng lúc đó ba tôi theo đò chèo ngược dòng Thạch Hãn để lên quận này. Thời gian đó, Quận Ba Lòng vẫn còn. Quận và Chi CA còn đóng trên này. Tôi mới sáu, bảy tuổi nên trí nhớ không rõ ràng lắm. Giờ này, dù ai có giải thích hay nói một tên khác nhưng tôi từng tới vùng đất dưới kia từ thưở bé thơ. Đó là một ngày có con đò chèo từ thành phố thân yêu lên ngược Thạch Hãn, tận một thung lũng có tên Ba Lòng. Một nơi có làng mạc có dân cư hiền hòa cùng những đồng bắp tốt tươi. Riêng tôi, tất cả hình ảnh nằm trong kỷ niệm như thôi thúc chân tôi bước nhanh hơn để xuống đèo xem tận mắt giờ cái vùng kỷ niệm nay ra sao.
Chúng tôi cố bước theo nhau- những bước chân đi như không định hướng. Sự sụp đổ lan nhanh không ai ngờ mà chẳng ai chống lại được? Tôi vừa đi vừa thả hồn về hình ảnh cũ: Rà Vịnh- Ba Lòng- Bến Đá Nổi, có thể người bên kia chiến tuyến chưa ai từng nghe qua. Đối tôi vẫn giữ mãi trong lòng những cái tên đó...Một ngày xưa có tiếng chèo của người trạo phu khua nước trong đêm, có thằng bé theo cha ngược dòng Thạch Giang lên tận một nơi được người viết xem như là một "thung lũng thần tiên".
Gần hai mươi năm sau, đứa bé kia lại được về lại cái thung lũng "thần tiên" đó nhưng trong thân phận của người tù binh chiến bại. Ngoái về hướng nam, người tù bình biết chắc một điều là Xuân Này Con Không Về, mẹ và người thân yêu xin đừng đợi nữa.
MỘT KHU LÁN TRẠI ĐẦU NGUỒN SÔNG THẠCH
Đoàn tù binh xuống hết đèo Ba Lòng thì trời đã về chiều. Nguồn sông hẹp và cạn nên chúng tôi chỉ lội một chút chi là qua sông. Đầu nguồn vào tháng này nước vừa ít vừa chảy chậm, trông chẳng khác gì một dòng suối lớn.Tôi cố tìm theo trí nhớ xem thử còn một bãi đá ven sông, một bờ sông có vô vàn viên đá lớn tròn trịa. Giờ cái tên "Bến Đá Nổi" nó ở đâu, tôi không còn thấy được?

Trước mắt tôi, một cánh rừng hoang vắng, rậm rạp, không bóng người, không làng mạc, dân cư? Từ 1960 cho đến lúc toán tù binh chúng tôi bị dẫn tới đây là mười lăm năm. Đúng mười lăm năm có nhiều thay đổi cho một vùng mang danh là "Miền Hỏa Tuyến". Khoảng 1963, tôi mới học lớp ba, đó là năm đảo chánh, Quận Ba Lòng cũng mất từ năm này. Từ đó người Tỉnh Quảng Trị ít nghe ai nhắc đến địa danh Ba Lòng. Một vùng dân cư miền núi mới lập lại trong thời cụ Diệm, nhưng nếu ta lấy cái năm 1960 MặT Trận thành lập, chiến sự từ đó leo thang và Ba Lòng xem như 'xóa sổ' là điều tất nhiên. Sau này lúc còn đi học tôi còn nghe Tuyến McNamara thành lập đi kèm với việc “bạch hóa” hoàn toàn quận Gio Linh. Khu Định Cư Cam Lộ tiếp tục vụ Hạ Lào, Mùa Hè Đỏ Lửa cho đến hôm nay những ngày cuối cùng của tháng Tư 1975 xem như định mạng một miền nam đã được QUYẾT ĐỊNH.
Lại một lần nữa chúng tôi được vào một khu lán trại bộ đội bỏ hoang ven sông. Có tiếng đồn rằng “hàng binh Trung Đoàn 56” của ông Trung tá Phạm v Đính có trú ngụ tại đây? Tiếng đồn còn ‘gay cấn’ hơn nữa là số quân này có tham gia với quân “Cách Mạng trong trận đánh úp Cửa Việt của VNCH trong đêm rạng ngày 27/1/1973 trước khi Hiệp Định Ngưng Bắn ký kết? Những lời đồn nghe “cười ra nước mắt” tin không tin tùy người nhưng “lưỡi không xương nhiều đường lắc léo” chả có gì chứng cớ? Chỉ có một chuyện đúng: mùa hè 1974 tôi đóng quân tại Vĩnh Hòa Phường là chốt cuối cùng tại mạn biển, còn Cửa Việt thuộc phía họ. Từ Vĩnh Hòa Phường men theo bờ biển ra tới Cửa Việt phải vài ba cây số. Đường ranh ngưng bắn 1973 vạch từ Vĩnh Hòa Phường cắt lên Long Quang, Nại Cửu cắt An Tiêm vượt qua sông lên tới miền núi ...
***
Cái “miệng hại cái thân” có anh chàng tân binh nào đó trạc tuổi em trai tôi, anh ta mới học xong ở Dạ Lê, Phú Bài lại nghe đâu khai là “trung úy” thế là bị theo đoàn tù binh chúng tôi đi tận đây? Người lính đó có cãi chính, thanh minh gì chẳng có cán bộ vc nào tin. Người bộ đội của bắc quân, họ chỉ tin vài tờ giấy “bàn giao” trong đó có mấy dòng nguệch ngoạc của anh du kích hay cán bộ nào trong Huế ghi xong. Thế là anh chàng ta bị bắt đi theo đoàn tù từ Huế ra.
Có một chuyện khá bi hài cho tù binh VNCH. Tác giả tin rằng, có khi “trong cái rủi có cái may”. Đại đội chúng tôi thất trận và bị bắt trước tại Ưu Điềm lúc Huế chưa mất, do đó chúng tôi lại bị 'lội bộ' ít hơn. Từ Lai Phước đi bộ lên đây mất hơn hai ngày đường. Nghe đâu sau này tù binh từ Huế ra quá nhiều. Đi bộ từ trong đó ra ‘toe cả chân’ lại phải ngược theo đường Chín lên tới Tà Cơn, Khe Sanh?! Chỉ tính từ Cam Lộ lên Khe Sanh cũng phải xa thêm 65 cây số nữa...chúng tôi đi trước nhưng chỉ ngang đây, số người còn ít ỏi nên dễ thở hơn sau này, thật còn may!
Mấy tuần của tháng Tư này chúng tôi ở đây. Từ trên “khung” của cán bộ xuống các lán đất chúng tôi chẳng có hàng rào nào. Chúng tôi đủ loại lính từ TQLC, Bộ Binh, Địa Phương. Phần nhiều là lính và hạ sĩ quan. Có một số sĩ quan nhưng ít hơn...
30 THÁNG 4, 1975
-Đúng 11 giờ 30 tổng thống "Ngụy Quyền" Sài Gòn Dương văn Minh chính thức tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ...
Tiếng phóng thanh từ cái loa trên nhà cán bộ phát ra. Đó là tiếng của đài phát thanh Hà Nội từ “Khung” lanh lảnh dội xuống toàn khu trại tù binh sáng ngày đó làm tôi lạnh toát người.
Tôi cảm thấy choáng váng, tai không dám tin vào sự thật đang đến? Sau hơn năm tuần làm thân phận tù binh:
-Thế là hết!
Ba tuần của tháng Tư bị giam tại thung lũng này. Ba tuần kết tủa từ nhiều suy nghĩ, lo âu, hồi hộp cùng nhiều nhung nhớ lao lung. Đến hôm nay buổi sáng 30 tháng Tư của cái năm Một Chín Bảy Lăm chúng tôi đang trực tiếp nghe và nhận lấy một sự thật não nề. Tính từ ngày 23 tháng Ba, đúng NĂM tuần căng thẳng lướt qua trong đầu... Hơn một tháng trời, tôi cố gắng hình dung một Sài Gòn đang chiến đấu trong đó ra sao? Có thể là những hình ảnh hỗn loạn, căng thẳng, những co rút chiến sự thảm thê, máu lửa. Nhưng tôi và những tù binh khác đã hi vọng một vài sự kiện gì đó xảy ra, tuy vu vơ và thất vọng.
Từ đầu tháng Tư đến nay, trong thung lũng này chúng tôi vẫn "bị" nghe nhiều tin chiến sự. Cán bộ coi tù binh hàng ngày khoe khoang sức tiến nhanh của quân đội của họ. Chúng tôi còn nghe được sự chết chóc ghê gớm của hai phía tại Tuyến cuối Long Khánh do Tướng Lê Minh Đảo chỉ huy tại vùng ranh cuối cùng bảo vệ cho Sài Gòn...
Những ngày cuối tháng Ba, lúc vừa bị bắt tai Mỹ Chánh ra tạm giam tại thôn An Lạc bên Sông Đông Hà tôi còn nhớ có hai cán bộ chính trị viên hay kêu chúng tôi lên “Khung" tức là nhà của cán bộ. Lý do: Ngọc và tôi tuy là hai trung đội trưởng nhưng là hai sĩ quan duy nhất trong đám tù binh đầu tiên qua sông Thạch Hãn. Ngày đầu toán tù binh 17 người chúng tôi qua sông Thạch là 24.3.1975. Hai chính trị viên nói giọng Bắc, hơi thâm trầm. Họ cần chúng tôi cung cấp những thông tin nào mà chúng tôi biết được về phía quân lực chúng tôi. Thời gian đã lâu tôi không còn nhớ họ hỏi chúng tôi những gì ? nhưng đại khái về cách thức bố trí mìn bẫy, quân số đơn vị, những gì tôi biết.
Cứ mỗi lần lên 'khung' ông ta khoe với hai chúng tôi sức tiến quân phía họ. Quân miền bắc ngang tỉnh nào, trên cái bản đồ trong phòng, ông ta bôi đỏ tỉnh đó.
Mới hai, ba hôm trước tôi còn nhớ ông ta bôi đỏ Bình Tuy, rồi Long Khánh...
Hi vọng của tôi theo từng ngày tan biên dần. Những ngày tôi vẫn cò chút hi vọng miền nam còn lại 'phần nào đó' trong xa kia...
Những đêm tôi nằm nhẫm lại những mốc thời gian vừa qua:
-24/3/ 1975 Những ngày này còn bị giam tại thôn An Lạc chân cầu Đông Hà cũng người chính trị viên này bắt Ngọc và tôi thu vào băng nhựa kêu gọi anh em tại biển Thuận An 'buông súng' . Ông ta từng bôi những chữ " được đối xử tử tế theo TINH THẦN QUY ƯỚC GENEVA..." phải đổi lại "... theo SỰ KHOAN HỒNG CỦA CÁCH MẠNG'.
Cuối tháng Ba, tôi con` hi vọng 'RANH GIỚI NGƯNG BẮN' sẽ là đèo Hải Vân?
Rồi tin Huế mất 26/3, Đà nẵng mất 29 tháng 3 /1975... tất cả sự kiện này các tù binh đều được cho hay. Có thể họ cố tình lung lạc tinh thần chúng tôi.
Non một tháng Tư bị giam tại các lán thung lũng này. Những ngày đi cùi gạo. Những kho gạo do Thuợng Cộng cầm súng Ak canh giữ . Những người bộ đội CS người Thuợng mặt mày lầm lì, khẩu AK đeo ngang trước bụng, ngón tay hờm vào cò súng. Mắt họ lườm lườm nhìn chúng tôi, im lìm. Có thể họ không nói được tiếng Việt. Trước kia tôi được biết những bộ đội Thượng Cộng rất trung thành không gì lung lạc họ. Giờ đây nghe mấy cán bộ dẫn chúng tôi đi nhận gạo khoe họ đúng là trung thành, từng giữ các kho gạo dự trữ này mấy năm nay tại thung lũng này một cách kiên trì không hao hụt gì . Gạo mốc meo mục nát , thay bao nhiều lần . Đây là gạo dự trữ nhiều năm để 'đánh miền Nam'. Theo thời gian nay cứt chuột quá nhiều, đen như những hạt đậu, giờ cho tù binh ăn. cán bộ CS ở đây có cho chúng tôi biết, những kho gạo này dự trù cho "chiến dịch HCM kéo DÀI ÍT LẮM LÀ 2 NĂM"!
***
Chiều 23/3/1975 tôi bị bắt tại Thôn Trạch Phổ, Phong Bình, trong lòng tôi vẫn tin có ngày trao trả giống năm 1973 khi ranh giới ngưng bắn hai bên sẽ rút vào nơi nào đó?
Tôi vẫn là người tù binh, vẫn những cảm nghĩ và hình dung một ngày trao trả? Một ranh giới cuối cùng của một phía thối lui và phe kia lấn tới lắp đầy chỗ trống cho đến một 'thỏa thuận mơ hồ' trong trí tưởng tượng của tôi hay của một số người?
Có khi tôi lại tính toán hay hi vọng có một ngày ba mẹ tôi trong kia sẽ được 'truy lãnh' HAI năm lương cho những người lính mất tích hay bị bắt làm tù binh? Nhưng phải có một điều kiện khi mọi người còn một niềm tin nào đó để cùng cố mà hình dung ra một 'RANH GIỚI NGƯNG BẮN' cuối cùng cho đôi bên ở một nơi nào trên mảnh đất teo tóp dần hồi của phía chúng tôi?
Nhưng rồi...
Đà nẵng mất, hi vọng tuyến ngưng bắn Hải Vân tiêu tan. Có tin đồn hai phía sẽ ngưng bắn ở Phan Rang rồi Phan Rang và tiếp đến Bình Tuy mất...
***
Hình ảnh trao trả tù binh nam bắc tại sông Thạch Hãn sau Ngưng Bắn Paris 27/1/2973 (hình Phạm thắng Vũ)
Từ cái loa phóng thanh dành cho học tập trong trại, chúng tôi nghe rất rõ cái giọng the thé của người phát thanh viên nữ giọng Bắc:
-Đúng 11 giờ 30 Tổng Thống Sài Gòn Dương văn Minh ...
Rồi những bản nhạc "Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Đại Thắng" "Tiến Về Sài Gòn"... dồn dập phát lại.
Cán bộ trong trại reo hò, các 'vệ binh' tức là bộ đội reo hò. Những cái radio của cán bộ mở lớn 'hết volume'! Hôm nay trại không đi đâu. Tất cả chúng tôi được ở trong trại để liên tục nghe loan tin ĐAI THẮNG phía người ta.
Tôi không nhớ tôi có khóc hay rơm rớm nước mắt không? Nhưng thứ cảm giác tôi nhớ rõ nhất đó là nỗi buồn tê tái. Mình tôi lạnh ngắt, một tâm lý hụt hẫng, sâu lạnh lẫn bơ vơ lạc lõng... Tuy đã là tù binh nhưng mới hôm trước trong tôi vẫn còn hình tượng một miền nam 'vẫn còn', gia đình tôi trong kia -Bình Tuy- 'vẫn còn'?
Giờ gia đình tôi trong nam ra sao? Cả nhà đã mất tin tôi hơn môt tháng nay. Gia đình thằng Ngọc, người sĩ quan cùng đại đội, thì ở Huế, gần hơn nhà tôi. Huế mất vào hôm 26 tháng Ba, Ngọc buồn trước tôi hơn một tháng rồi.
Giờ đến phiên tôi. Sài Gòn đầu hàng xem như số phận Bình Tuy đã xong. Ba mạ và các em tôi ra sao? nhà tôi hơn một tháng nay chắc quay quắt vì tin tôi.
- Thôi rồi, tất cả sụp đổ!
Thực tế trước mắt tôi sáng ngày 30 tháng Tư đó là hình ảnh rộn ràng, âm thanh huyên náo của các cán bộ trên nhà chỉ huy, một đất trời sụp đổ của sự chết lịm từ những niềm tin bám víu, tất cả như quay cuồng xoắn tít, tạo thành một 'ảo giác' nào đó làm tôi lịm ngất hay chóng mặt rụng rời.
Tôi như nằm mơ. ..Có tiếng lao xao mừng rỡ của một số lính thủy quân lục chiến. Họ là lính, họ mừng vì họ sẽ được cho về nam như lời các cán bộ kia hứa hẹn trước: rằng "ít tội hơn cấp chỉ huy". Những người lính kia dù là 'thứ dử' họ cũng phải về trước thôi. Sụp đổ rồi, thế là xong. Mảnh giấy trắng, cán bộ nguệch ngoạc vài chữ, những người lính này sẽ về nam.
Chúng tôi chấp nhận tháng ngày trước mắt ra sao
cũng được. Chúng tôi không phải là lính mà là những người đã thụ huấn với trình độ chính trị khác với những người lính. Sự chấp nhận đó là lẽ ĐƯƠNG NHIÊN là CÔNG BẰNG giữa trách nhiệm và thụ hưởng, giữa vinh quang và hậu quả mà thôi.
Những cán bộ chính trị viên sẽ "lên lớp" trong tư thế khác. Họ là kẻ chiến thắng. Trong một tình huống khác xa vượt qua tầm tưởng tượng của tôi:
Còn chúng tôi, số sĩ quan sẽ ở lại.
Chúng tôi chấp nhận tháng ngày trước mắt ra sao
cũng được. Chúng tôi không phải là lính mà là những người đã thụ huấn với trình độ chính trị khác với những người lính. Sự chấp nhận đó là lẽ ĐƯƠNG NHIÊN là CÔNG BẰNG giữa trách nhiệm và thụ hưởng, giữa vinh quang và hậu quả mà thôi.
Những cán bộ chính trị viên sẽ "lên lớp" trong tư thế khác. Họ là kẻ chiến thắng. Trong một tình huống khác xa vượt qua tầm tưởng tượng của tôi:
-SÀI GÒN ĐÃ ĐẦU HÀNG!
Có nhiều điều hi vọng vẫn bám ví vào tâm trí
người tù binh. Tôi vẫn tin vào 'trao trả, trao
đổi'- một giá trị gì đó khi quân đội và một miền nam vẫn còn. Trong chiến tranh, thắng bại lẽ thuờng. Khi thua nếu ai không bị giết thì làm tù binh. Tôi còn mừng do còn sống tức là còn có ngày được 'trao trả', được trở về với một miền nam còn lại...
Hơn một tháng trời tôi từng hi vọng sẽ có một NGÀY TRAO TRẢ TÙ BINH- tương tự hình ảnh trao trả đôi bên bờ Thach Hãn vào năm 1973. Rồi sự thật cuối cùng đã đến. Một buổi sáng, tất cả hi vọng đã tan như bong bóng xà phòng.
Một sự thật đau buồn, hoàn toàn ngoài mong đợi, ước đoán, tàn nhẫn phủ chụp lên chúng tôi vào sáng 30 tháng Tư,1975 trong một Thung Lũng đầu nguồn Thạch Hãn ./.
No comments:
Post a Comment