Tuesday, April 15, 2025

VỀ LẠI HUẾ XƯA (hồi ký tù binh)

 Huế 6/2/1980




Khi tôi về, nhìn dân tôi ngỡ ngàng
Khi tôi về, nhìn quê hương điêu tàn
Nhìn tuổi thơ nghèo nàn, nuôi đời trong dối gian! (Con Đường Tôi về / Lê Tín Hương)

***
    Chiếc xe Bình Điền thả chúng tôi xuống gần Ga Huế thì trời chưa chiều lắm. Mấy anh em hối hả chia tay, xong tìm cách nhanh nhất về nhà.

    Tôi ngơ ngác ngó quanh. Mấy năm xa vắng cố đô giờ tôi nhìn lại, Huế có vẻ gì xác xơ và xa lạ! Cũng như các bạn khác từ rừng xanh về lại chốn thị thành, mới biết quê hưong chỉ vài năm mà tiều tụy đến não nề! Ga Huế im lìm trong cơn nắng tháng Sáu. Cửa cái bể, cái vá. Quanh nơi tôi đứng, vài ba cái quán đìu hiu trong gió, vài thẩu kẹo, năm ba nải chuối đu đưa.



Tiếng mời đi xe của mấy người xe đạp ôm đưa tôi về thực tại:

- Đi xe khôn eng...? !
-chú... chú ...đi xe cháu nì chú?!

    Nhìn quanh toàn là xe đạp, người viết không ngờ ngày về lại Huế nay trước mắt toàn là những chiếc xe méo mó, sét rỉ, không vẻ gì chắc chắn để làm chuyện chở người. Đến nỗi này sao? Người Huế giờ lại "sáng tạo" ra một cách làm ăn mà tôi chưa bao giờ thấy trước đây. Họ phải tận dụng hết sức lực ‘cơ bắp’ của mình kiếm đồng tiền, bát gạo trong một xã hội ít ai còn tiền để đi. Họ phải ‘bấm bụng’ giành miếng ăn từ mấy anh xích lô đạp bao năm nay, những chiếc xe lambretta, những chiếc xe đò hai màu xanh trắng. Ngày xưa người ta cũng đi “xe ôm, xe thồ” nhưng tệ lắm là chiếc honda, nhấn ga là chạy “vù vù”, thế mà đã than khổ rồi?

    Tôi không biết từ chối hay nhận lời ai đây? Tôi ái ngại nhìn những ánh mắt cầu khẩn của mấy người đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi. Những nét mắt chưa xóa đi nét vô tư và hồn nhiên của những ngày chỉ biết cắp sách đến trường, áo cơm thì có ba mạ lo, giờ thì chẳng còn chi! Cũng may có thêm khách và tôi khỏi từ chối ai. Tôi chọn cuốc xe của một em đạp xe đạp ôm bằng tuổi em tôi:

-Về Tây lộc mấy rứa?
-Chú cho 3 đồng à chú.

     Nhìn tôi, em đó cũng chẳng ‘nói thách’ làm gì, chúng tôi là ... cải tạo mà. Xa Tây Lộc không biết mấy năm rồi.  Tôi vẫn nhớ nồi cháo gà thơm phức của mạ đích tôi, hồi đó nổi tiếng trong cái chợ mới xây, đặt tên là chợ Tây Lộc, kế đường Trần quốc Toản.

    Người thiếu niên gò lưng cố đạp qua cầu Sông Hương. Chiếc cầu mới xây sau này, giờ cũng nét “rêu phong, rệu rả”. Huế giờ này sao nhiều xe đạp quá đi thôi! Tôi hơi lấn người tới trước như muốn mình được ‘nhẹ hơn’. Hỏi chuyện, tôi biết em đạp xe còn đi học nhưng phải kiếm thêm tiền về cho mạ. Em không biết cách gì để giúp gia đình nữa, phương tiện là chiếc xe đạp nhưng lại bon chen lắm mới kiếm ra ngừoi khách. Có khi cả ngày em mới được một ‘cuốc’ xe chỉ đủ mua ba lon gạo.

    Xe đã vô cửa Thượng Tứ. Nó cứ rập rành qua mấy đoạn có ổ gà, ổ vịt. Tôi lại rướn người lên cho nhẹ bớt khi nghĩ đến cảnh cái ruột xe của em bị dằn qua mấy chỗ đá nhăm. Từ sau, tôi thấy áo trắng bạc màu của em đã lấm mồ hôi, hơi thở của em dồn dập, em ráng cho xong một đoạn đường nữa để có mấy đồng bạc Bắc mà tôi đã để sẵn mà trả cho em.

    Nhớ về quá khứ, đây đâu phải là lần đầu tôi được chở đi bằng xe đạp. Nhưng hồi đó là đi chơi,đi dạo mát vui thú cái tuổi thiếu niên sau những ngày học hành mệt nhọc. Giờ đây tôi là một gánh nặng cho một em mới lớn; em phải đổi sức lực của mình để kiếm vài lon gạo cho mẹ già và mấy em đang đợi ở nhà. Cái điệp khúc mệt mõi này lại kéo dài trong cái não nùng , buồn tủi, đợi mong.


NHỮNG ĐỒNG BẠC NGHĨA TÌNH

    Khi em nhỏ đạp xe ôm tới ngang cống Tây Lộc, tôi vội nhảy xuống do Cống hơi dốc. Tôi trả ngay cho em 3$ ‘bạc bắc’ tôi đã bỏ sẵn trong túi từ lâu. Nhìn theo dáng đạp xe vội vàng của em, lưng hơi cong, cái áo trắng nhàu nát, đẫm mổ hôi, tự nhiên tôi chạnh lòng thuơng cảm cho một thiếu niên người Huế, tuổi mới lớn lại gặp gian nan quá sớm. Tôi không biết em dùng 3 đồng đó làm gì. Kiếm khách thêm thì trời đã chiều. Ai đi đâu lúc này? thời buổi ngoài đường người đi bộ “đông hơn xe đạp”.

        -Ba lon gạo là cùng!

Tôi nghĩ thầm.

    Ngày đó “củi quế gạo châu”- vào năm 1980, người lớn tuổi chắc không ai quên. Vào cuối năm 1975 thời gian tôi đang ở tù tại Trại Ái Tử, mang một đồng “bạc bác” lén về được Chợ Hôm -cái chợ chiều 'chồm hổm' nhà quê gần sông Thạch Hãn xã Triệu Long, tôi mua được đúng "một lon" khoai khô. Tiền thời này, cao nhất là tờ bạc mười đồng màu đỏ trong khi gạo là 'thuốc bổ -sâm nhung '?


Lá thư nhà do thân phụ từ Bình Tuy gửi cho tôi ra tới trại tù Bình Điền nhận ngày 6/1/1980...một thời ngay cái phong bì gửi thư cũng hiếm

    Tôi thở dài quay bước tìm nhà mẹ đích tôi. Trước 1975, mẹ tôi được một căn trong Cư Xá Công Chức sát chợ Tây Lộc, nay đã bị Nhà Nước đuổi hết. Trong chợ ai mà không biết mẹ tôi - "Bà Cuơng nấu cháo gà ngon có tiếng"!

    Con đường nhỏ về phía phi trường Tây Lộc cũ dẫn tôi vào dãy nhà lụp xụp. Vừa thấy tôi vào nhà mẹ tôi quá mừng và bất ngờ nhưng không quên buông những câu nguyền rủa ai đã giam tôi quá lâu:

        -quân chi ác ôn ...con người ta mói ra trường mà giam chi giam ác tới 5-6 năm dữ rứa?!

    Anh em bây giờ tản mác vào tận miền Nam, chỉ còn đứa em gái ở lại với mẹ tôi vừa làm HTX thêu ren 'bữa đực bữa cái' vùa phụ nấu nồi cháo gà cho mẹ tôi lúc này. Tôi chỉ ở với mẹ tôi được một, hai đêm. Sau khi ăn uống no nê mẹ tôi moi hầu bao được mấy chục bạc cho tôi ra QT tìm bạn bè. Nhìn những đồng bạc một đồng hai đồng cũ nát cuốn tròn mẹ tôi lần ra từ cái 'ruột tượng' tôi như muốn khóc. Một ngày mẹ tôi buôn gánh bán bưng chỉ được năm mười đồng, nhưng giờ tôi thật sự cần tiền?

    Trước khi ra khỏi Bình Điền, 'Trại' cho tôi 32$ bạc. Trại tính theo giá nhà nước mỗi cây số '3,2 xu' [2] hay 0$032 nhân lên 1000 cây số ;than ôi, sự thật ngoài trại tù lại khác. Mọi thứ đều thiếu từ vải vóc, gạo dầu, cho đến cái vé xe chỉ ưu tiên cho cán bộ và “tiêu chuẩn hoá” nên tất cả đều chỉ có sẵn tại 'chợ đen" mà thôi. Còn hai muơi mấy đồng có gắng lắm đến Đà Nẵng là cùng. Đây là lý do tôi phải 'bấm bụng' lấy mấy chục bạc lao khó từ tay mẹ già, từ công lao em Hoà, phải thức sớm làm gà phụ nồi cháo cho mẹ, vừa thêu ren mỗi tháng ròng rã chỉ vài chục bạc.

VỀ LẠI QUẢNG TRỊ

    Chiếc xe hàng thả tôi giữa đường quốc lộ gần Cầu Ga. Tôi theo con đường Hồ đắc Hanh cũ về lại xã Hải Trí. Nguyễn văn Bốn, thiếu uý BDQ 'học tập ' trong Đà Nẵng, ra tù lúc sau 15 tháng. Bạn tôi giờ chạy xe hàng với ba hắn, nhưng hắn gọi chú vì ba của Bốn tên là BA.

    Thành Cổ tan tành nên nhà Bốn về 'định cư' gần ngã tư Quang Trung -Hồ đắc Hanh. Vùng này bà con còn gọi là Hải Trí. Gia đình bạn tôi chạy xe nên thuộc tầng lớp khá giả, dù xe đò bị vào 'hợp tác xã xe khách ' từ lâu.

    Bốn ra tù sớm hơn tôi nên đã lấy vợ. Gia đình Mai, vợ Bốn trước đó cùng ở đường Duy Tân. Mẹ Mai là một đạo hữu rất siêng năng công quả nhất với chùa Tỉnh Hội năm xưa thời Thầy Thích Chánh Trực trụ trì. Tôi và Bốn là hai đứa bạn thân trong xóm Cửa Hậu (Cửa Hậu là một cửa của Thành Cổ: Tiền-Hậu-Tả-Hữu). Tội nghiệp, cái xóm đó giờ người ngoài kia vào ...bắt đầu xây dựng lấy hết đất. Bà con về lại như nhà Bốn biết ở với ai, nên đành bỏ cuộc. Hơn nữa, biết ai giúp đòi lại? Bà con thôn xóm ngày xưa sống dọc theo con đường Lê văn Duyệt, tản mác tứ phuơng. Kẻ ở trong nam, người tận khu thị tứ Đông Hà. Sau 1975, khu Thị Tứ Hải Lăng xem như 'xoá sổ', bà con xóm Cửa Hậu, đường Lê v Duyệt - Duy Tân thêm một lần nữa tản mạn vô nam hay 'hồi cư'  ra lại vùng này hay về làng.

    Chuyện hồi cư lần một, nói cho dễ hiểu là hồi cư sau 1973. Năm này bà con ra ở quanh cồn cát Diên Sanh dối diện TKQT- tạm gọi là "Khu Thị Tứ". Đợt hồi cư thứ hai (1975) là cuộc “đổi đời” sâu đậm nhất: ngoài trừ người 'ra đi miên viễn'; còn lại thì vượt biên, vào nam, ra tận Đông Hà buôn bán làm ăn. Còn một số như gia đình của Bốn không về lại cái xóm Cửa Hậu thân yêu đó mà trú ngụ bên đường Hồ đắc Hanh hay Hải Trí.

    Cho đến hôm nay tôi mới có dịp viết lên đôi dòng cảm tác về tình bằng hữu giữa hai đứa bạn thân nhau từ thuở mới 'sinh ra đời'.

Sau khi ăn uống no nê, gặp gỡ chú thím Ba- ba mẹ Bốn- hôm sau Bốn dắt tôi ra tận Đông Hà; Một lần nữa, hai chúng tôi xăm xoi trong khu thị tứ mới của Đông Hà sau 1975 để tìm bà con xóm Cửa Hậu.

năm 2022 người bạn thân Nguyễn văn Bốn từ Sài Gòn về lại thăm xóm xưa đang ngồi trước di tích điêu tàn Cửa Hậu Thành Cổ

              

    Hình ảnh bà con trong xóm ngày nào giờ đang trở lại...Nào hai gia đình dì của Bốn: dì Nậy, dì Giỏ đều là chủ xe đò nhưng nay đã vào hợp tác xã. Nhà Trần Tài (em út của cac anh Tước , Xê -Tước- Tiết,  và O Bê) và nhiều người nữa. Gặp tôi về ai cũng thuơng, ai cũng mừng. Bạn đọc tha lỗi cho cái tội nói về mình; xưa, trong xóm Cửa Hậu ai cũng thuơng tôi.
                       Đông Hà 1975-1980

Nhắc lại bà con tản mạn ra đây, Đông Hà, ai cũng bảo tôi ở lại nhưng lòng tôi như 'lửa đốt'. Tôi nôn nóng về nam. Gia đình trong Bình Tuy đang ngóng tin tôi từng giờ. Tình cảm mẹ tôi tại Tây Lộc, từ bạn bè, bà con lối xóm giúp tôi gần ba trăm đồng bạc bắc cho tôi làm lộ phí vào nam. Số tiến này lúc này không phải là ít. 

    Đón chiếc xe hàng vào Huế, giã từ Đông Hà mắt tôi còn ghi lại hình ảnh cái quán ăn lụp xụp mang tên Đường Ký, một thời là một tiệm ăn Tàu lớn bên Phố QT. Lọt đuợc vào lòng chiếc xe 'gió', lòng tôi chua xót cho thời thế 'vật đổi sao dời”.

ĐHL 

Sunday, April 13, 2025

TS TRẦN KIM ĐOÀN- HÒA HỢP HÒA GIẢI DÂN TỘC 50 NĂM SAU CÒN SỚM - VỪA TẦM HAY ĐÃ MUỘN






Kỷ niệm 50 năm, ngày chấm dứt chiến tranh, Việt Nam thống nhất đất nước; nhưng dân Việt vẫn còn phân hóa theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Bởi vậy mới có vấn đề “Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc” đặt ra 50 năm sau như một vấn nạn dân tộc chưa có một giải pháp đồng thuận, vừa tầm hay một cách tiếp cận hài hòa cho cả hai phía thắng và thua, trong nước và ngoài nước.


Hình minh họa:

Lính Miền Nam dìu lính Miền Bắc bị thương. Mậu Thân 1968. 

 

Năm mươi năm nhìn lui, nhìn tới và nhìn quanh đất nước, xã hội, con người tập thể và cá thể chính mình từ nhãn quan của người trong cuộc và người ngoài cuộc để thấy được gì?

Thế hệ Chiến tranh Việt Nam (tiêu biểu là những người sinh từ 1935 đến 1960) đến nay đã có hơn một nửa đã về đất. Người còn lại thường tự hỏi rằng, vết thương chiến tranh đã lành hay chưa? Bao giờ người Việt Nam anh em mới có sự hòa hợp hòa giải thật sự?

 

30- 4- 1975

 


Hình minh họa:

 Gặp nhau trên hai chiến tuyến 1972

 và 50 năm sau gặp nhau anh em cùng một nhà.

Đây không phải chỉ là Ngày Khép Lại của cuộc chiến tranh Việt Nam 30 năm mang dấu ấn bi tráng nhất trong lịch sử dân tộc mà còn là thời điểm và cơ hội hé cửa và mở đường cho một thế hệ mới của người Việt nói riêng và cho hằng triệu người Việt Nam cùng đất nước nói chung bước ra cũng như ngoái lại, nhìn thấy và tiếp cận với thế giới toàn cầu.

Đã 50 năm qua, nếu chỉ đứng về mặt tình tự và cảm xúc trung dung “có triệu người vui, có triệu người buồn” như câu nói nổi tiếng của ông cựu Thủ tướng bên thắng cuộc Võ Văn Kiệt (1922-2008) trong ngày 30-4-1975 thì vết thương tinh thần vẫn chưa thành sẹo – nghĩa là niềm vui chưa trọn vẹn và nỗi buồn chưa nguôi ngoai – của cả hai phía anh em. Do đó, tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc vẫn còn trôi nổi trong tầm mong ước tiệm tiến cho đến hôm nay.

Trên lập trường dân tộc thuần túy, tự bản chất và căn nguyên của cuộc chiến Việt Nam cần phải được hiểu rằng: Đây là cuộc Chiến Tranh Việt Nam (Vietnam War) chứ không phải là cuộc nội chiến của người Việt Nam giữa hai miền Nam Bắc (Vietnamese War) bởi sự tương tranh, thù hận, bên này cần tiêu diệt bên kia là ở hai phía chính trị, kinh tế và sách lược chinh phục (Tư Bản VS Cộng Sản?) ở tầm mức vùng miền và thế giới chứ không phải do sự hận thù của người Việt, có khi là ruột thịt, nhưng phải sống theo vùng chính trị địa lý quê hương giữa hai miền Nam Bắc. Tuy nhiên, một khi những người anh em phải lên sân khấu đấu trường thì mặc nhiên phải “nhập vai” (giết hay bị giết)! Lâu ngày, thói quen sẽ tạo thành thiên tính. Phá vỡ thiên tính theo thói quen vẫn thường khi khó hơn phá vỡ một… nguyên tử! Do vậy, nhu cầu thiêng liêng và truyền thống “trăm con cùng một mẹ” đã bị phân hóa tới mức hận thù. Ai tự ý công khai muốn vượt qua hay tiến lên khỏi hai phía hận thù thì thường bị “đàn cua cùng chung giỏ giương càng níu lại” và khó thoát khỏi bị sơn vàng hay phết đỏ hoặc bị dán nhãn hiệu bên nầy hay bên kia!

Năm mươi năm (1975-2025), thời gian trung bình của một đời người và hai thế hệ, quán tính hận thù vẫn còn tồn tại. Triển vọng hòa hợp hòa giải dân tộc vẫn là mảnh đất gieo giống “trăm con cùng một Mẹ” mãi vẫn chưa mọc mầm. Hiện tượng hằng triệu người Việt từ hải ngoại về thăm quê hương ồ ạt đến “cháy vé” kể cả 3 thế hệ (cha mẹ, con cái và cháu chắt); nhưng người ta đã trở về như một du khách hay một thành viên của dòng họ, gia đình và bằng hữu chứ được mấy ai về quê với ý niệm hội nhập với cộng đồng dân tộc trọn vẹn (?!).

Lỗi tại ai và do đâu?

-         Tại bên thắng cuộc chăng? Vâng đúng! Bởi mặc cảm tự tôn cùng với mô thức áp đặt thiếu mềm dẽo và công bằng đối với bên thua cuộc.

-         Tại bên thua cuộc chăng? Vâng đúng! Bởi mặc cảm tự ti bị “đồng minh” phản bội nên thua cuộc và người anh em “trên cơ” bức bách, ngược đãi.

Trong lúc đó, muốn hòa giải thì phải cần một mặt bằng hòa hợp trước. Hai bên đã phân hóa nhau lâu ngày vì ở trên hai chiến tuyến của lịch sử, hai hoàn cảnh khác nhau và hai lập trường đối nghịch. Hòa hợp không phải là đòn phép mà là một trạng thái cởi mở, tiếp nhận và cảm thông phát xuất từ tâm. Triết lý hòa hợp hòa giải dân tộc Việt Nam đơn giản và trong sáng như nụ cười Thằng Bờm và nắm xôi Phú Ông: Đúng lúc, đúng tầm và tự do bình đẳng… chứ chẳng phải vận dụng những phương án vĩ đại, nghị quyết đơn phương hay vọng tưởng viễn mơ nào cả.

Dẫu chư vị đã thuộc nằm lòng vè ca dao Thằng Bờm đâu đó rồi nhưng phút nầy vẫn trân trọng xin mời đọc lại bằng tấm lòng thật thà, nhân hậu và  chan hòa không mưu “thắng” chẳng cầu “thua” của tầng lớp người Việt Nam trung thực:

Thằng Bờm

 

Thằng Bờm có cái quạt mo,

Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu,

Phú ông xin đổi một xâu cá mè.

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè,

Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim.

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim,

Phú ông xin đổi con chim đồi mồi.

Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi,

Phú ông xin đổi nắm xôi: Bờm cười!

 

 Đây chính là tinh thần hòa hợp căn bản của dân tộc nhân bản và nhân văn. Sự hòa hợp giữa hai thế lực cao thấp, thiếu cân xứng tưởng như không bao giờ có cơ hội đứng trên cùng một mặt bằng xã hội và tâm lý; thế nhưng cuối cùng, sau thái độ ứng xử công bằng về thế lực (nắm xôi = quạt mo) thì chung cuộc là sự hóa giải của nhu cầu và khát vọng.

Năm 1975, dân số cà hai miền Nam Bắc chỉ mới bằng nửa hiện tại (48 triệu – 1975) nhưng lịch sử Chiến tranh Việt Nam và địa lý đất nước chia đôi đã mặc nhiên phân ranh giới anh em, đồng bào ruột thịt thành hai bên chiến tuyến: Bên thắng trận và bên thua trận (hay nhìn theo cuộc diện chính trị, quân sự và kinh tế như nhà báo Huy Đức thì có thể nhận diện hai phía là Bên Thắng Cuộc và Bên Thua Cuộc). Dư âm và dư chấn của cuộc chiến 20 năm (1954-1975) đã “điểm danh” đồng bào, anh em thành hai phía được và thua như trắng đen, đỏ vàng thù nghịch. Qua tương tác và tiếp cận giữa hai miền Nam Bắc, đáng lẽ cột mốc phân ranh tự nhiên thấp dần và mờ nhạt nhưng đã 50 năm sau cuộc chiến, lằn ranh đó vẫn còn. Do đâu?

Tìm sự hòa hợp như tìm bóng trăng dưới đáy hồ: Sóng yên, nước lặng và trong suốt thì bóng trăng hiện ra. Đã 50 năm qua, hai bên thắng cuộc và thua cuộc tìm bóng trăng trên biển hồ sóng gió ào ạt từ bản tâm phân hóa chủ nghĩa nên anh em không nhìn rõ mặt nhau. Càng đem nhiều lời hùng biện hay lý sự để thuyết phục nhau thì càng xa nhau.

Trong nhịp sống thật, người Việt Nam anh em hai phía đã thực sự có những biểu hiện hòa hợp và hòa giải chân tình và cảm động nhưng chỉ là những đám mây lành thoáng qua, rồi bầu trời vẫn âm u trở lại. Xin đơn cử vài “bóng mây hòa hợp” bay qua như thế:

Tử Chiến Hoàng Sa

Ngày 12-1-2014, 40 năm sau trận hải chiến Hoàng Sa chống Trung Hoa xâm lăng, lần đầu tiên cả trăm triệu người Việt Nam anh em, bất luận Bắc Nam, không phân biệt trong nước hay ngoài nước, đều đã được nhìn thấy mặt nhau trong buổi tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa bị Trung Hoa chiếm đoạt bằng vũ lực và 74 chiến sĩ hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã ngã xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 được tổ chức tại Hà Nội. Lần đầu tiên hơn 30 năm, người anh em miền Bắc đã gọi Hải quân Thiếu tá Ngụy Văn Thà là “Thiếu tá hạm trưởng quân lực Việt Nam Cộng Hòa”, là một anh hùng vị quốc vong thân thay cho những nhãn hiệu đầy định kiến do “chính sử, dã sử, huyền sử, khuyết sử, tư sử, giả sử…” để lại như “Ngụy quân, Ngụy quyền; tay sai Mỹ Ngụy, lính đánh thuê…” ! Tiếc thay, sự nhận diện ra nhau – đầy tình tự dân tộc làm căn bản cho sự hòa hợp giải dân tộc không lưu phương dài hơn một thời tưởng niệm.

Nhượng địa cho Trung Quốc

Ngày 10-6-2018, theo biểu tình phản đối dự luật về ba đặc khu kinh tế - hành chính đã bùng lên tại Hà Nội, Sài Gòn và một số địa phương khác.

Dự luật cho thuê đất 99 năm đối với ba đặc khu Vân Đồn, Phú Quốc và Bắc Vân Phong đã bị công luận Việt Nam lên án là nguy hiểm cho chủ quyền quốc gia. Chính phủ và Quốc Hội Việt Nam đã quyết định hoãn việc thông qua luật này.

Có thể nói đây là lần đầu tiên kể từ cuộc biểu tình rầm rộ trên khắp cả nước năm 2016 phản đối công ty Formosa Đài Loan làm ô nhiễm biển miền Trung, người dân tại Việt Nam lại xuống đường đông đảo.

Thông tín viên của AFP tại Hà Nội đã thông tin đoàn người tuần hành xung quanh Hồ Gươm, giương cao các khẩu hiệu phản đối chính quyền cho Trung Quốc thuê đất. Hình ảnh trên các mạng xã hội cho thấy tuần hành cũng diễn ra tại nhiều địa điểm ở thành phố Hồ Chí Minh, hay Nghệ An, Bình Dương, Nha Trang…

Đặc biệt là khối người Việt hải ngoại cũng chung dòng cảm xúc với người anh em trong nước, cùng nêu cao tinh thần chống ngoại xâm. Khi tổ quốc Việt Nam đang ở cận sự hay viễn ảnh lâm nguy, người Việt không còn phân chia ranh giới để cùng góp chung tiếng nói bảo vệ giống nòi, đồng cảm thương yêu quê cha đất tổ.

Đứng trên cùng mặt bằng, chung tầm nhìn về đất nước, thắng bại chưa hẳn là thước đo tuyệt đối – bởi nói như Lư Khôn đời nhà Minh Trung Quốc: “luận anh hùng chớ kể hơn thua” (luận anh hùng mạc vấn thành bại) – thì nhìn nhận hay thấy được nhân cách và tấm của nhau bên ni Trường Sơn Đông mưa dầm và bên kia Trường Sơn Đông nắng cháy mới mong hòa hợp, tìm ra mẫu số chung cho một tiến trình hòa hợp, hòa giải có thực chất và sức mạnh chuyển biến lòng người và hành động cụ thể.  

 

Thế hệ Tô Lâm

Thế hệ (generation) là một nhóm người sinh ra và sống trong cùng một khoảng thời gian nhất định, có những trải nghiệm, đặc điểm xã hội và văn hóa tương đồng.

Về độ dài của một thế hệ, không có con số cố định, nhưng thường được tính trong khoảng 20 đến 30 năm. Đây là khoảng thời gian trung bình để một người trưởng thành và sinh ra thế hệ tiếp theo.

 

Ở phương Tây, các thế hệ thường được phân chia như sau:

Thế hệ Baby Boomers (1946–1964)

Thế hệ X (Gen X) (1965–1980)

Thế hệ Y (Millennials) (1981–1996)

Thế hệ Z (1997–2012)

Thế hệ Alpha (2013 đến nay)

 

Ở Việt Nam, cách phân chia thế hệ có thể khác đôi chút do ảnh hưởng của lịch sử, chiến tranh và sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng nhìn chung, một thế hệ thường kéo dài khoảng 20-25 năm.

Người lãnh đạo cao nhất của Việt Nam hiện nay là ông Tổng Bí thư Đảng CSVN Tô Lâm. Ông sinh năm 1957 và cũng là nhân vật lãnh đạo đầu tiên trong dòng lịch sử Việt Nam có thành tích cao nhất về cả văn lẫn võ: Về Văn ông có học vị Tiến Sĩ và học hàm Giáo Sư. Về Võ ông có quân hàm Đại Tướng. Về chức vụ ông là Tổng Bí thư của Đảng đương quyền lãnh đạo toàn diện đất nước.

Thế hệ Tô Lâm – tức những người sinh vào khoảng đầu thập niên 1950 đến cuối 1960 – có một số đặc điểm đặc biệt so với hai thế hệ đàn anh và kế thừa ở Việt Nam. Đây là nhóm người lớn lên trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam và trưởng thành vào những năm đầu sau thống nhất đất nước (1975) với những điểm nổi bật của thế hệ này là: Trưởng thành trong thời kỳ bao cấp (1975–1986). Đóng vai trò quan trọng trong Đổi Mới (từ 1986). Chuyển tiếp giữa hai thời đại – từ truyền thống sang hội nhập. Tập trung vào ổn định chính trị và phát triển kinh tế nhà nước. Phần lớn những nhân vật lãnh đạo trong thế hệ này bước vào chính trường từ những vai trò chuyên môn có trường lớp và bài bản đào tạo chính quy chứ không phải với tinh thần du kích “cầm gươm ôm súng xông tới” hay khả năng “hồng trọng hơn chuyên” trong quá khứ.

Thế hệ Tô Lâm là một “thế hệ bắc cầu” vừa tiếp thu kinh nghiệm và tác dụng chính trị của thế hệ đàn anh đi trước, vừa truyền đạt, định hướng và làm gương cho thế hệ đàn em (những người lãnh đạo trẻ hơn, sinh sau 1970s hoặc 1980s) đang nổi lên trong hệ thống chính trị Việt Nam.

Hồi tháng 9 năm 2024, ông Tô Lâm, khi đó đang giữ chức Tổng bí thư và Chủ tịch nước, qua Mỹ dự Hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong dịp nầy ông đã tới thăm và phát biểu tại Đại học Columbia ở New York. Sau bài phát biểu, ông Tô Lâm nhận câu hỏi từ Giáo sư Nguyễn Thị Liên Hằng, Giám đốc Viện Đông Á Weatherhead thuộc Đại học Columbia.

Bà Hằng hỏi: "Dưới sự lãnh đạo của mình, ông sẽ làm gì để thúc đẩy sự hòa giải giữa những người Việt Nam?"

Ông Tô Lâm cho biết dù chiến tranh đã đi qua gần 50 năm, nhưng quá khứ sẽ không bị lãng quên mà việc quan trọng là rút ra bài học từ quá khứ để hướng tới tương lai hòa bình và ổn định. Cách trả lời tổng quát như thế được giới truyền thông khen là bén nhạy và khéo léo về mặt ứng xử với công luận; nhưng viễn kiến và bước đi cụ thể chưa đủ thuyết phục vì căn bản vẫn còn nằm trong dự phóng.

Đã 50 năm qua, cờ của một miền Nam thua trận vẫn còn do người anh em bên thắng cuộc gọi là “cờ Ngụy”, văn học nghệ thuật miền Nam 1954-1975 cũng vẫn còn nhìn qua tên gọi của các phong trào phản chiến xuống đường là “văn chương đô thị miền Nam”… và nhiều danh xưng, tên gọi, dấu hiệu mang tính tiêu cực đối với người anh em thua cuộc. Trong khi đó, chỉ cần quay đầu là thấy bến.

Sau 50 năm, sự đối thoại âm thầm về mặt tâm lý hay quan điểm giữa hai miền Nam Bắc vẫn là cảnh Phú Ông bất chấp Thằng Bờm và Thằng Bờm cũng bất cần Phú Ông.

Ông Tổng Bí thư Tô Lâm đã mở đầu một nước đi tích cực và cụ thể hơn.

Hôm 13 tháng 2, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu tại một phiên thảo luận tổ, trong khuôn khổ kỳ họp bất thường lần thứ 9 của Quốc Hội. Trong bài phát biểu với nội dung bàn về đường hướng phát triển đất nước, ông đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Singapore, trước thành tích phát triển khá rực rỡ của nước này. Ông đã nêu tên Sài Gòn, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, để so sánh với Singapore:

“Nhìn sang Singapore, xưa họ nói được sang Bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh là mơ ước; 50 năm nhìn lại giờ mình lại mơ sang họ khám bệnh.”.

Trước đó, hôm 9 -1- 2024, trong cuộc gặp với các bô lão Đảng viên, nguyên cán bộ Nhà nước, đại biểu trí thức, nhà khoa học và văn nghệ sĩ các tỉnh thành phía Nam, ông Tô Lâm cũng đã có những lời nói tích cực về cựu thù. Bài phát biểu của ông Tô Lâm có đoạn:

 “Những năm 60, Sài Gòn - TP HCM là điểm sáng, Hòn ngọc Viễn Đông, Singapore cũng không bằng nhưng giờ đây tốc độ phát triển đã vượt rất xa.”

Đây là lần đầu tiên một Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm công khai thừa nhận sự phát triển của Việt Nam Cộng Hòa so với các nước quanh khu vực ở cùng thời điểm. Và đây cũng là lần đầu tiên, những người anh chị em miền Nam cảm thấy như mình “được hiểu và chia sẻ” bởi một người anh em miền Bắc thuộc hàng tổng tư lệnh. Trong tâm thức Việt Nam ông Tô Lâm đã đưa hình ảnh nắm xôi trong biểu tượng Thằng Bờm và Phú Ông để tạo ra nụ cười đón nhận của những người anh em một thời bên kia chiến tuyến. Ông đã một bước phá vỡ rào cản của những người tiền nhiệm thản nhiên nói toàn những điều tiêu cực về Việt Nam Cộng Hòa như gọi là chế độ “tay sai”, “ngụy”, “đánh thuê”; dán nhãn hiệu kinh tế xã hội của Sài Gòn là “phồn vinh giả tạo”.

Và lịch sử là một dòng chảy linh động. Thế hệ Tô Lâm cùng đã chứng tỏ rất linh hoạt và cập nhật trước những thách thức mới của hoàn cảnh và thời đại. Đặc biệt là trong những ngày vừa qua, đối diện với một cuộc biến động kinh tế, chính trị có dấu hiệu khủng hoảng khi ông Donald Trump, tổng thống Mỹ áp thuế toàn cầu với Việt Nam bị áp thuế 46%. Ngay tối 4-4-2025, ông Tô Lâm và nội các đã phản ứng cấp thời; nhanh đến nỗi Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, Marc Knapper vỗ tay khen ngợi.  

Mặc dầu cuộc thương chiến của Trump đang trên chiều hướng biến động và thế giới đang phân cực cũng như có dầu hiệu tái lập một trật tự toàn cầu mới thì điều đáng nói ở đây là trên vũ đài chính trị Đông Tây, giới lãnh đạo Việt Nam ngày nay chứng tỏ được sự nhạy bén và viễn kiến thích nghi.

Viễn ảnh và cận sự Hòa hợp, Hòa giải  

Mỹ với cuộc Nội Chiến (Civil War) chỉ trong vòng 4 năm (1861-1865) nhưng phải mất cả 100 năm để hòa hợp hòa giải. Đức với cuộc chiến Đông Tây (1949-1990) phải cần cả 30 - 40 năm, Đại Hàn (cuộc chiến từ 1950 đến nay vẫn còn xung đột).

Việt Nam với sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất chưa hẳn là trở ngại chính trị cho người Việt Nam anh em hòa hợp. Trường hợp chính quyền độc đảng như Trung Hoa, Singapore, Rwanda… hay các nước Trung Đông do Hồi giáo lãnh đạo nhưng người dân trong các nước đó không phân chia hai chiến tuyến thù nghịch. Đơn cử những hiện trạng phân hóa và hòa giải tiêu biểu như trên để người Việt anh em tham khảo và suy gẫm.   

Chúng ta đã để dòng cảm xúc thắng và thua quá nặng nề và nghiệt ngã trôi chảy vào mạch sống dân tộc suốt 50 năm. Không ai là người có năng lực hay quyền hạn trách cứ lịch sử; nhưng mỗi người dù ở vị thế nào đều không thể tách mình ra khỏi dòng lịch sử. Cuộc sống sẽ không có khi nào là muộn màng để tìm một điệu sống an vui, hài hòa giữa thắng và thua, đấu tranh và hòa giải.

 

Sacramento. Cali, Tháng Tư 2025

Trần Kiêm Đoàn

 


Friday, April 11, 2025

50 NĂM CUỘC CHIẾN VN- NHỮNG ĐỨA CON MỸ ĐEN CÒN SÓT LẠI

 

        
 PHẦN MỘT


     Vừa lên khỏi con dốc Sơn Mỹ một đoạn là quán chè mụ Mít. Cái quán đơn sơ do chỉ có một cái bàn gỗ ọp ẹp, hai tấm ván bìa làm thành hai cái ghế dài, nửa tấm ván lớn làm bàn. Chỉ vậy mà quán chè mụ Mít khá đông khách. Khách của quán phần đông là đàn bà, con gái, những người đi bán than dưới chợ tỉnh La Gi về. Nhà họ đều ở cùng thôn này, nên không không xa lắm.


hình cắt lại từ clip bạn cùng thôn- các cô gái thồ than người xã Sơn Mỹ  hình tết 1987. Họ bán than tại thị trấn LAGI xong lên lại nhà và hay ghé hàng chè mụ Mít 


Quán chỉ bán vài loại chè bình thuờng như đậu đen, đậu đỏ, đậu xanh ... không màu mè như chè đô thị, tuy vậy mà đông Khách. Tầng lớp lao động, rẫy rừng, ly chè, mụ Mít đập cho vài cục đá lạnh thế là họ 'thỏa mãn' rồi. Mụ nhớ, thì mụ rắc cho một giọt dầu chuối cho thơm ly chè, nhưng mụ quên thì thôi, không ai phiền hà.



  quán nước bên đường 1995 (dốc Sơn Mỹ xuống chợ Cam Bình , hinh cua ĐHL  )



Trời xế chiều. Mấy o bán than, mấy ôn đạp xe buôn heo con, coi bộ cũng hết. Hơn nữa, mụ chỉ còn một ly chè cho thằng con út. Con trai mụ đi rẫy, chiều nào hắn cũng về sớm. 

***

 

Mụ Mít giờ đang ngồi thừ người ra; dáng thư giãn sau một ngày bán buôn mệt nhọc. Ngó vậy mà trong lòng mụ mấy hôm nay như "sóng cồn, lửa cháy". Mụ ghen tức với mụ Hồng bán cá trên chợ xã Sơn Mỹ: 

  -Con mệ Hồng bựa ni oai dữ rứa? cả nhà con mệ sắp đi Mỹ rồi mà, răng mà không oai?!

 Mụ Hồng có đứa con lai Mỹ nhưng không là con nuôi mà là con ruột. Bởi nó lai mẹ nên pha hai dòng máu thành ra là đứa con lai đẹp trai là đằng khác. Có cái may mắn, con mụ Hồng là con lính Mỹ trắng nên chẳng hề có màu da đen như mấy đứa Mỹ đen khác. Mấy hôm nay cả nhà mụ Hồng đang rục rịch chuẩn bị đi Mỹ. Phái đoàn phỏng vấn xong trước tết. Nghe đâu giấy mời xuất cảnh cũng gởi về rồi. Gần cả tháng này mụ Hồng  đã nghỉ bán cá ngoài chợ. Trong chợ, ai cũng trầm trồ "chỉ chọt" mụ Hồng. Tuy chưa đi Mỹ mà mụ coi bộ "trắng da dài tóc", huống chi qua bên nớ- xứ Mỹ giàu có ngất trời. Thằng con trai của mụ Hồng đã xin nghỉ học cấp ba dưới thị xã La Gi, chuẩn bị đi cùng gia đình.


            hình minh họa: thằng Đen


Trong lòng mụ Mít vừa buồn vừa đau ghê gớm. Mụ quay quắt trong người, ăn không còn biết ngon, ngủ thì hết còn thẳng giấc như bữa trước. Không biết chuyện đau của mụ từ "tiếc của" hay "sám hối ăn năn". Hoàn cảnh mụ Hồng khác với mụ Mít; do mụ Mít chỉ tình cờ "lượm" mấy đứa con lai Mỹ đen tận ngoài Đà nẵng. Sau đó mấy đứa con lai này cũng theo ba mạ nuôi vào Bình Tuy theo diện KHẨN HOANG LẬP ẤP 1973 đi từ Đà Nẵng nên chúng đã có tên trong sổ gia đình rồi.


Con lai Mỹ trắng dĩ nhiên thì làm sao vào tay mấy mụ được chỉ còn lại mấy đứa con rơi Mỹ đen "quỷ tha ma bắt ", ngoài Đà Nẵng không ai thèm nuôi mà họ  còn ghê là đằng khác. Trước tiên do Mụ Mít nuôi để làm phước, sau là có cơ hội kê khai thêm vào sổ gia đình. Thời chạy giặc 1972 ngoài Đà Nẵng,  có thêm nhân khẩu tức thêm gạo, thêm mỳ không thiệt thòi chi. Tiếp đến, vào Bình Tuy có một khẩu lại thêm gạo và tôn lợp nhà nên còn lợi thêm.

Thằng Đen như mụ Mít hay gọi cũng giống như những đứa con lai da đen khác, đa số chúng đều được gọi là " thằng đen" cả. Sau 1975, hết trợ cấp, mấy đứa con nuôi này trở thành những tay lao động CHÍNH trong nhà. Chúng làm than, củi cùng phá núi, san rừng chi chúng đều rành rọt. Chúng là con lai nên vóc dáng to lớn, lao động mạnh nên chẳng ai cảm thấy thiệt thòi; trái lại, sau 1975 tại các vùng rẫy rừng người ta còn mừng là đằng khác.
Chỉ có mụ Mít hôm nay quả là thiệt thòi nhất trong xã. Có thể là "quả báo" hay chăng?  Chuyện do Mụ bắt thằng Đen làm việc quần quật ngày này qua tháng nọ.  Mọi ngày nó phải vào rừng rất sớm, tối mịt mới về. Con trai mụ làm rừng chỉ đôi ba bữa lại 'than đau-van mệt' ; đã biếng thế, nhưng mà mụ Mít bới cho con trai mình toàn cơm trắng cá kho khô. 

Còn thằng Đen? 


Nó, quanh năm suốt tháng mịt mù trong rừng. Hết phát rẫy, đợi khô xong đốt dọn. Xong, mụ bắt làm than kiếm thêm tiền. Mụ bắt chước do thấy thiên hạ đi bán than, mấy chiếc xe đạp thồ nghểu nghện mấy bao than cao ngất, có tệ chi "cũng hơn trăm bạc!" mụ Mít chắt lưỡi  thèm thuồng.


Đen làm trong rừng cật lực thế mà Mụ cho thằng Đen ăn ít quá! bới vào rừng chỉ toàn là sắn lát dính vài hột cơm trắng cho có; ruốc kho khô mặn chát, không có chi tươi cả.

Mấy bữa nó đau. Cực quá, nó xin mụ cho nghỉ ở nhà một ngày cho khỏe nó gắng làm bù. Nó coi bộ sốt thiệt. Muỗi trong rừng cắn nó bao lâu nay sao mà không sốt rét cho được? Thế mà mụ chửi, mụ la. Mụ Mít bảo nó làm biếng, không biết công ơn mụ lượm nó từ Đà Nẵng vô; nuôi nó lên vóc dáng như hôm nay.


Thế là Đen tuy đau trong người, nhưng hắn vẫn phải tiếp tục lủi thủi vác rìu rựa vô rừng.




 dốc Sơn Mỹ xuống chợ Cam Bình , hình 1995 của tác giả


Một bữa trong làng xôn xao, thằng Đen con mụ Mít chết rồi, chết vì sốt rét! Nhà mụ cũng võng nó về trạm xá dưới huyện Hàm Tân lo cứu nó, nhưng nó chết giữa đường.


Tội nghiệp, Thằng Đen chết thật lặng lẽ. Trong làng chẳng có mấy người đi đưa đám nó. Cái mả nó sơ sài, nằm bên cồn đất xấu rìa làng. Nơi này là đất bỏ hoang, không ai canh tác.

                 *

Thời thế đổi dời.
Mấy hôm nay mụ nghe thiên hạ đồn 'nhà giàu' mô từ Sài Gòn về tận thôn lùng sục mua con lai. Nghe đâu giá mỗi đứa con lai tới "MƯỜI MẤY CÂY VÀNG"- sau khi hoàn tất 'thủ tục' giấy tờ xong.

Ôi! "cả đống vàng " trong tay, mà mụ nỡ lòng vứt đi. 


Mụ Mít mấy hôm nay như kẻ mất hồn. Người mụ trông 'như ngây như dại', ăn không ngon, ngủ chẳng yên. Mấy đứa con mụ Hồng đi lo thủ tục "cắt khẩu" trên huyện về, khi lái honda qua nhà mụ, chúng còn ngó vô nhà mụ như an ủi mà lại muốn khoe khoang, làm mụ Mít tức muốn sôi gan, lộn ruột.


Đêm nằm mụ trăn trở do không ngủ được. Trong giấc ngủ chập chờn, mụ thấy hình ảnh thằng Đen đang thất thểu bước vào rừng. Dáng nó ốm, cao lêu nghêu. Cái quần đùi cụt, chiếc áo ka-ki bạc màu, vá mấy nơi...

Ánh sáng phía rừng chợt lóe lên; những tia sét lóa cả mắt, kèm theo tiếng nổ ầm ầm của sấm làm mụ Mít giật thót mình. Những giọt mưa đầu mùa bắt đầu rơi mạnh, nghe "rào rào" trên hai mái tôn xi măng. Nỗi sợ mơ hồ ập đến, làm mụ co rúm cả thân người vào tận góc giường như muốn trốn chạy một ám ảnh nào.


PHẦN HAI

 THẰNG ĐEN THỨ HAI - TỐT SỐ  


 từ ba thôn Hà -Mỹ- Lễ  (viết tắt từ Gio Hà, Gio Mỹ và Gio Lễ) xã Sơn Mỹ ngó lên xa xa là ngọn núi Bể và ngọn Mây Tào cao hơn. Đây là hình của tác giả tháng 7/1995  trước khi rời quê hương 


    Thời gian tiếp theo, cả nhà mụ Mít không biết đổi đi đâu, không còn ở vùng Sơn Mỹ này nữa. Cái quán, người chủ khác bán. Khách ăn chè đôi khi rảnh rang bàn tán chuyện nhà mụ Mít. Ít người thuơng cho hoàn cảnh của mụ còn nói "đáng đời!"


Nhà mụ bỏ đi do chẳng còn ai đảm trách việc nặng trong rừng sau khi thằng Đen chết, lại còn cái miệng đời "thị phi, to nhỏ" là một chuyện khác. 
Chuyện đi Mỹ càng ngày càng rầm rộ trong một vùng quê "chó ăn đá gà ăn muối" này. Dĩ nhiên không ngoài cái chuyện "mua bán, gán ghép" những đứa con lai còn sót lại sau cuộc chiến tranh. Nói đúng ra khi những cặp mắt "lùng sục" tìm ra những đứa con lai còn sót lại nơi "khỉ ho cò gáy"- một vùng quê sắn khoai còn thiếu, huống gì cơm.


Thời gian đó, khi những đứa con lai tại đô thành đã ra đi hết, thì những đứa con lai tại đây dù da đen cũng quý "hơn vàng". Suy cho cùng, da chúng 'càng đen' càng đúng "nai vàng chính hiệu" đó thôi.          

Thằng Đen (lại một thằng đen khác) lúc mấy tuổi còn đi giữ bò làm rẫy hắn có tên là Cu Đen. Hắn con mụ T. chịu vừa nghe tin chịu "làm chồng" con gái ông thầy thuốc thú y miệt dưới, tức là vùng Tân Thiện, để con ông được đi Mỹ theo diện con lai.


Đen coi như bắt đầu "đổi đời". Hắn đương nhiên bỏ nghề làm rẫy để bắt đầu "tập tành" nếp sống quá mới lạ đối với hắn. Thật vậy, từ lúc hắn sinh ra cho đến tuổi trưởng thành, hoàn toàn là những ngày cơ cực. Mười mấy năm, rẫy rừng làm bạn, hết cái roi giữ bò thì những ngày mót sắn, lượm chai trong rẫy.  Mẹ hắn do cái tình mẫu tử- "rứt ruột" sinh ra hắn nên cũng không quá bỏ bê hay hành hạ "núm ruột" của mình. Có những ngày mạ hắn đem Đen đi xin học, dù đã quá tuổi, từ lớp một cho đến lớp năm trường làng. Để bù lại, Đen lao động rất siêng năng để bù lại thời gian đi học. Rồi phải được ăn diện "ra phết" cho giống "rể nhà giàu" mới được con mắt. Giai đoạn này chuyện kiếm con lai để đi Mỹ chẳng ai dấu giếm nữa do những gia đình con lai đi Mỹ 'ào ào' ngày nào mà chẳng nghe trên mặt báo hay mấy câu chuyện ở quán cà phê cũng như ngoài chợ. Có một điều đặc biệt, Đen là "rể" trên giấy tờ thôi nên Đen  không bao giờ được "léng phéng" với con gái ông. Chuyện bàn soạn hai bên là chuyện giữa cha mẹ mà thôi.  

 bạn cùng lớp ngang lứa của Đen vào năm 1983 xã Sơn Mỹ Hàm Tân Bình Thuận (sau lưng là ngôi trường đã hư đổ một nửa do chiến tranh)


Người viết có một chút biết về Đen do hắn có học lớp ba do vợ người viết đi dạy ở vùng này. Nó cao nhất lớp; chuyện này không ai ngạc nhiên do nó là con lai; hơn nữa lại đi học trễ. Bởi cao nhất lớp nên lúc nào cũng ngồi sau cùng để khỏi che mắt bạn bè. Tội cho hắn, do tai nó điếc nhiều vợ tôi kêu lên bảng phải nhìn thẳng vào nó ra dấu, nó mới hiểu.

Trời bù cho, Đen viết chữ rất đẹp ai cũng khen. Mạ nó một thời chịu khổ, kỳ thị, khi đẻ ra nó; nhất là sau khi "thời thế đổi dời"(1975), nói sao hết truân chuyên đắng cay của một người đàn bà có con lai Mỹ?


Trời cũng bù lại cho mạ thằng Đen này. Sau đó Đen làm rẫy giỏi và học hành cũng "bò" lên được lớp năm trường cấp I. Hình ảnh cái trường rách nát tả tơi, một thằng con lai da lại đen nổi bật trong đám học trò nghèo. Ai cũng nghèo, không rừng thì rẫy. Nói chung người trong làng, ai cũng thân phận giống nhau, chẳng thấy "phân biệt kỳ thị" gì nó cả. 


Dù sao, Thằng Đen này tốt số hơn Thằng Đen trong phần đầu truyện. Sau này nghe đâu qua Mỹ, Đen cũng đàng hoàng "giữ lời", trả lại đời độc thân cho người vợ con nhà giàu đó và đường ai nấy đi.


Mạ Đen sau này nghe đâu có về thăm lại xã xưa Sơn Mỹ một lần duy nhất.  Mạ hắn không quên chuyện quà cáp biếu bà con quanh xóm, không sót một ai. Người viết còn biết, người mẹ này còn biếu cho Xã một cái T.V. thật to. Từ đó, không ai còn nghe tin Đen nữa. Bà con bên "vợ" nó cũng chẳng biết gì tăm hơi thằng Đen nơi quê huơng của cha hắn- một đất nước quá mênh mông xa lạ. May mắn thay, sau này tác giả bài này được tin Đen khá thành công, an phận nơi quê hương mới.

                                        ***
Chuyện hai Thằng Đen, hai cuộc đời nơi vùng đất cao khô cằn sỏi đá, là những mẫu chuyện buồn của những đứa trẻ lai bất hạnh, lạc loài. Chuyện chiến tranh tuy dài lê thê, nhưng ít ai kết vào Thiên Bi Hùng Sử Chiến Tranh của đất nước chúng ta vài mẫu chuyện nho nhỏ- chuyện buồn của những đứa trẻ lai mang hai dòng máu Mỹ - Việt sau ngày tàn cuộc chiến ./.

Đinh hoa Lư  EDITION

2/7/2022

ghi chú: tên của các nhân vật đã được thay đổi 

DẶM TRƯỜNG

       Xa lộ 66  là con lộ chính của di dân. Con đường  bê tông  kiên cố chạy ngang qua khắp miền đất nước. Người ta nhìn lên bản đồ sẽ thấy...