chào bạn đọc
Sau tháng Tư 1975 cuộc chiến trớ trêu đã dành phần thắng cho phe xâm lăng Cộng Sản Bắc Việt. Rõ ràng là bàn cờ quốc tế đã để lại một số phận hẩm hiu cho một miền nam chiến đấu cô đơn trong tuyệt vọng. Sài gòn đầu hàng hay Sài Gòn sụp đổ cùng đồng nghĩa với bao tang tóc cho quân dân cán chính VNCH. Những kẻ chạy đi bỏ lại một quê hương miền nam thất thủ phía sau với muôn triệu cuộc đời tủi nhục buồn đau cho phía thua trận. Những chiến sĩ cán bộ VNCH đã thua và không vẹn tròn trách nhiệm với dân với nước. Những chiến sĩ cán bộ và đồng bào miền nam đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh vệ quốc đã đền xong nợ nước những kẻ còn lại thì chịu cảnh trả thù thâm hiểm của phe miền bắc cùng bọn nối giáo hay nội tuyến với cái danh xưng trơ trẽn là 'MTGPMN'
Sau ngày tù tội, những chiến sĩ cán bộ VNCH với hoàn cảnh là 'phó thường dân' trong chế độ mới, họ phải nhọc nhằn mưu sinh kiếm sống qua ngày. Có những thương binh VNCH lại đáng thương hơn do họ phải kiếm sống khi cơ thể không vẹn toàn và bị chế độ mới hất hủi ra ngoài rìa xã hội. Ăn xin, bán vé số vất vưởng đó đây trên bao con đường phố miền nam. Còn những kẻ ra 'Tù Cải Tạo' họ cũng vất vả không kém sau năm tháng bị đày ải trừng giới, lao động nặng nhọc và bỏ đói nơi rừng thiêng nước độc...
Một mảnh đời sau ngày tù tội của người viết, cũng như hàng trăm ngàn mảnh đời khác từng vật lộn tháng ngày sau ngày 'gãy súng'. Họ phải sống và tranh sống khi chế độ mới từng liệt họ là thành phần thứ dân trong đất nước họ mới chiếm xong.
ĐHL
CON
ĐƯỜNG GIÓ BỤI CỦA ANH BÁN BÁNH DẠO
Vùng tôi ở dân trồng nhiều cây sắn (người Nam gọi
là mỳ) từ thứ nông phẩm này hai vợ chồng mới nghĩ ra một nghề mới nghề chiên
bánh ‘thèo-lèo’ đi bỏ mối. Thế là dọc con đường gió bụi của tỉnh lộ 23: Tân thắng,
Bình châu, Bông trang, Bà-tô, nông trường Hòa bình rồi tôi vượt sông La-ngà qua
tận Xuân Sơn, Bình giã , Ngãi giao, không một quán nào vắng bóng những chiếc
túi ny-lon đựng bánh thèo-lèo chiên, xanh xanh đo đỏ tất cả đều từ bàn tay khéo
léo của vợ tôi làm ra.
Một chuyến tôi đạp xe đi bán mất ít nhất là 2 ngày. Lên Xuân Sơn tôi ở lại nhà
cậu mợ tôi một hoặc hai ngày. Cậu tôi sau khi ra tù, về địa phương
làm nghề thợ rèn. Người cậu tuy làm nghề vất vả nhưng lại đắt khách. Núi rừng Xuân
Sơn trong thời gian này đang bị ‘bạch hóa’ cho nhu cầu bắp và cây sắn, sau này
là cà phê tiêu. Do đó ai cũng cần cuốc rựa thế nên nhà cậu tôi làm không hết việc.
XE BÁNH THÈO LÈO BÁN DẠO TRÊN CON ĐƯỜNG HÀM TÂN BÌNH GIÃ
Tôi sung sướng nhất là những khi bán hết hàng. Bán hết hàng , chuyện này làm
cho tôi quên hết cái khổ nạn của đoạn đường về nhà gần 70 cây số. Con đường đất
đỏ trên chặng Bà Tô, Hòa Bình hay dưới tôi thì lún cát. Gặp mùa gió chướng phải
ráng mà đạp chiếc xe thô kệch nặng nề, phía sau còn đèo một ‘cần xế’ to tướng
như một cánh buồm cản ngọn gió ngoài Trung thổi vô. Tôi gò lưng lại, mim môi
nghiến răng cố sức đạp. Chiếc xe trước ngọn gió quái ác cứ chầm chậm nhích từng
mét một. Gió mạnh đến nỗi có khi chiếc xe thồ "thân yêu " của tôi tưởng
chừng ĐỨNG yên lại !
Mỗi chuyến đi bán bánh ram (tức là thèo lèo chiên ) về lại trường cái áo công
nhân xanh tôi bạc phếch và khô cứng đi vì lớp mồ hôi MUỐI ướt đẩm theo mấy mươi
cây số đường trường ngược gió.
Nghề bánh này một thời gian cũng chẳng còn ai ưa chuộng , tôi đổi sang nghề đi
buôn đường. Đường bánh ép từ mía, tôi chở từ chợ Sơn Mỹ lên bán tại chợ xuân
Sơn BÌnh Giã nhưng cuối cùng cũng ế ẩm không 'cơm cháo' gì. Cuối cùng tôi quyết
định ở nhà tìm rừng đốt than, làm rẫy.
KIẾP TIỀU PHU hay tôi là chàng Thạch Sanh bất đắc dĩ?
Hết cảnh khom lưng đạp chiếc xe thồ rong ruổi trên con đường thiên lý tôi lại
vào núi chặt hạ cây rừng. Đất Bình tuy thuở này người dân tha hồ đốt phá để tạo
ra nương khoai ruộng mía giải quyết sự đòi hỏi của bao tử. Tôi cũng thế từ sáng
sớm tinh mơ đã vác búa vô rừng làm bạn với khe với suối, nghe tiếng con công
kêu ban sáng hay lũ bìm bịp báo hiệu chiều về. Có đôi khi tôi tưởng tượng thân
phận mình chẳng khác chi anh chàng ‘Thạch Sanh bất đắc chí’ hay là ‘anh
hùng mạt vận vào rừng đốt than’ nào đó không bằng.
Người viết chẳng bao giờ quên phút giây cảm khoái nhất là lúc đốn ngã
xong một cây rừng to lớn. Từ lúc tiếng "răng rắc" của thân cây
nặng nề chuyển mình cho đến lúc nó thực sự gục xuống đánh "ầm"
trên mặt đất đó là lúc tôi sung sướng tự thưởng cho mình một điếu thuốc ‘rê’ to
tướng. Một mình trong rừng sâu, tôi nhìn vào lòng bàn tay sưng lên xọp xuống
không biết mấy lần? Những vết chai phỏng cũ chưa kịp lành thì vết mới tiếp tục
nứt nẻ nhức đau. Một mình tôi thương cho thân phận mình nhưng chẳng ngày nào
dám rời cán rìu cây rựa...
Vừa
phì-phà điếu thuốc vừa ngắm mây trời bảng lảng...Biển Thái Bình ngoài xa tít,
chân trời kia là thế giới khác và ngọn sóng biển quái ác từng nhận
chìm bao con tàu đi tìm cái thế giới đó, sóng đã tấp vào bờ bao xác người vô thừa
nhận.
Mùa khô khi nghỉ làm rẫy tôi còn một nghề đó là tiều phu vào rừng kiếm củi bán
mua gạo . Thời này một xe củi giúp tôi đổi được nửa thúng lúa , đó là giá trịcho
bạn đọc dễ dàng so sánh Tiều phu thời 'giải phóng' còn văn minh hơn vì có chiếc
xe đạp thồ làm bạn . Nói đên chiếc xe đa dụng một thời của 'vùng Ba Chiến Thuật'
này chắc người lớn tại Long Khánh, Thuận Hải , Đồng Nai, Bà Rịa ắt hẳn còn nhớ
. BỘ giàn của nó bằng ống nước, vành xe bằng nắp ống cống kim loại một thời
quân đội VNCH dùng , hợp kim này rất nặng , tăm xe cũng bằng sắt nên tổng lại nặng
nề. Chiếc xe đạp thồ dang dụng nó là phương tiện vận tải nông phẩm cho nghề làm
rẫy khi con bò kéo là dạng 'phú ông' thời này . NGoài rẫy rừng ra, chiếc xe đạp
thồ còn là phương tiện di chuyển . Con đường đất đỏ Hàm tân, Bình Châu, Bà tô,
Bà Rịa hay quặc lên Hòa BÌnh , qua bến đò Xuân Sơn lên tận Bình Giã , Ngãi giao
là con đường 'thân quen' của bao chiêc xe đạp thồ đa dụng 'vùng Ba Chiến Thuật".
CÀNH HOA BẰNG LĂNG CÒN SÓT LẠI BÌA RỪNG
Những
đóm lửa cuối cùng của
một ngày dọn rẫy của tôi còn leo lét cháy. Mặt trời từ từ
lặn dần sau ngọn Núi Bể và rặng Mây Tào phía tây. Tôi vội vàng gom cuốc, rựa
cùng rìu ra về. Chẳng khi nào tôi quên cái cái bon nhựa bới nước, đồ
dùng bới cơm hàng ngày, vài ba thứ trong cái chòi nho nhỏ. Giờ tôi mới kéo
chiếc xe đạp thồ từ trong lùm cây rậm ra. Chiếc xe thồ này khá đa dụng- đi lại,
vào rừng, thồ củi... Mùa này, nó là phương tiện giúp tôi đạp vào rừng.
Trước
khi rời rẫy, tôi chẳng bao giờ quên cột những thứ lặt vặt thật kỹ vào cái
"bót ba ga".
Chiếc
xe thồ quả là một "gia tài" cho những người lao động,
nghèo, nhất là những ai "đầu tắt mặt tối" sống nhờ vào rẫy- rừng.
Tránh cho xe khỏi bị cây đâm lủng lốp, tôi phải dắt nó đi qua mấy đám rẫy bạn
trong làng. Mấy đám rẫy chưa đốt dọn hết còn nham nhở, lởm chởm, quá nhiều gốc
nhỏ, nhọn hoắc, chẳng khác chi hàng ngàn "mũi chông" đen đúa chỉa mũi
lên trời. Vài ánh lửa còn leo lét cháy, còn bốc những làn khói yếu ớt
cuối cùng. Bạn làm rẫy về trước tôi khá lâu. Quanh tôi giờ đó quả thật
quá vắng lặng. Lũ chim rừng trốn đâu hết; không còn ồn ào huyên náo như buổi
sáng mai. Vừa đi, tôi vừa hú gọi xem còn ai về cùng, nhưng chẳng còn ai.
Tôi
dắt xe thêm một đoạn thì vừa tới Khe Lớn. Con suối sẽ chảy về Xã TÂN THẮNG,
qua cái cầu nhỏ tên là Cầu Kiều, trước khi đổ ra vịnh Hàm Tân.
Năm đó ít có nạn "rẫy luộc". Rẫy luộc là một khổ nạn
hay nói đúng ra là cơn 'ác mộng' cho người làm rẫy. Rẫy bị cháy bất ngờ
khi cây còn nhôn nhốt, chưa khô hẳn. Hậu quả gây cho người làm rừng phải bỏ
công sức ra gấp mấy lần để đốt dọn lại cho xong đám rừng cháy dang dở. Cả
một đám đất rừng còn nhiều cây cành lỏng chỏng trơ vó lên trời như 'oán như
than' nhưng "bỏ thì thương vương thì tội" biết bao nhiêu sức lực phát
rừng, chặt gốc mới có đám đất này. Đã tốn công dọn lại nhiều lần, lại thêm phại
chịu thêm một điều đáng buồn. Rẫy đã "LUỘC" thì
không cháy hết- cháy không hết thì ít mun tro. Hậu quả quá ít mun tro thì đất
tuy mới nhưng không tốt bằng rẫy người ta. Một ký ức cay đắng khi tôi gặp khổ nạn
'rẫy luộc' một lần. Cái rẫy đó đã 'hành' tôi "mất ăn, bỏ ngủ"
làm mãi chẳng xong. Đốt dọn nhọc công gấp ba lần, nhưng thu hoạch chẳng
đáng bao nhiêu. Rõ ràng hao công tốn sức.
Tôi đã tới Khe Lớn. Bên kia khe, có đường rộng hơn. Qua bên đó, tôi
sẽ thong dong đạp chiếc xe thồ về nhà. Giờ đây, mấy đám rẫy vừa dọn đốt gần
xong nằm lại sau lưng, chờ qua một đêm thanh vắng để ngày mai vang dội tiếng
rìu rựa. Một cánh rừng, non nửa năm trước còn rậm rịt, nay chỉ còn những khoảng
trống, toang hoác, khó coi?
Bạn
làm rẫy thực sự về trước tôi lúc nào? Tôi tiếp tục nhìn quanh xem còn ai, nhưng
chỉ còn lại một không gian vắng vẻ, rờn rợn. Những liếp rừng dày đặc phía
xa sau lưng tôi, giờ đen xẩm lại. Những tia nắng cuối cùng của buổi
chiều tàn còn thoi thóp hắt lên vài tầng mây lảng đảng cuối trời. Mấy
cánh rừng phía xa đó, chúng đang chờ đợi cho mùa rẫy sang năm. Một vùng đất
hẹp núi lấn sát biển của Hàm Tân nơi người Quảng Trị sinh sống,
đang tìm mọi cách mưu sinh qua ngày. Người dân làm tất cả mọi cách, từ đốt rẫy,
làm than, cưa cây đẳn gỗ, hay ra khơi làm cá. Mọi công việc nặng nhọc chỉ lo thỏa
mãn cho sự đòi hỏi của 'cái ăn' trước mắt. "Miệng ăn núi
lở", thực tế trước mắt tôi sao quá rõ ràng, hậu quả của chuyện "phá
rừng tầm thực" - quanh năm suốt tháng "quần thô áo vải",
lưng đẫm mồ hôi nhưng nghèo đói lại hoàn đói nghèo
Mùa
khô nước cạn, tôi chỉ cần lội qua con suối. Dựa chiếc xe thồ bên bờ suối,
tôi xuống khe mài lại rìu rựa cho đỡ thì giờ sáng mai. Tảng đá mài thiên nhiên
này người dân làng kể cả tôi hàng ngày đi qua khe dùng mài dụng cụ nên nó càng
lúc càng nhẳn thín. Nơi này cũng là "trạm nghỉ chân " cho
dân làm rẫy. Thuờng là những khi vác gỗ trong rừng ra,
hay cho những toán thợ rừng ngồi chờ nhau tại đây.
Trời
còn đủ sáng cho tôi vừa mài rựa vừa ngắm giòng nước trong
vắt chảy qua làm chân tôi mát lạnh. Vài chiếc lá khô đang trôi theo dòng nước. những
chiếc lá này sẽ vĩnh viễn xa rừng trôi mãi về duói kia, một vùng đất lạ lẫm, có
người, và cuối cùng có sóng biển vỗ mãi ngàn năm. Chúng sẽ đi mãi về dưới
kia đi qua vài ba thôn mới , mang tên Đội 1, Đội 2... dân làng sẽ sống
nhờ rừng. Những chiếc lá khô này sẽ
ngang qua Cầu Kiều trước khi thăm biển và mãi mãi ra đi
không còn về lại cánh rừng đã mất.
Vừa mài rựa tôi vừa suy nghĩ mông lung. Hình ảnh những
ngày phát dọn, bao âm thanh 'chan chát' từ những nhát rìu- tiếng 'răng
rắc' chuyển mình từ những thân cây sắp đổ- tiếng thở phào nhẹ nhỏm
khi cây đổ theo ý mình. Tiếp đến những ngày đốt dọn, mặt
mày tôi lem luốc, sức nóng hừng hực của lửa và bụi tro. Làm sao
tôi quên những phút giây thoải mái giải lao trong cái chòi nhỏ. Điếu thuốc rê
'to tướng' vấn trong tay, xong phì phèo nhả khói, tôi lặng ngồi ngắm
về biển Hàm Tân một màu xanh biếc...
Chợt mắt
tôi dừng lại khi bắt gặp một nhành hoa tim tím lấp ló
bên lùm cây dưới con khe.
- Ồ Hoa bằng lăng đẹp quá !
Từ
nhánh chồi của một gốc bằng lăng bị đốn từ lâu, chùm hoa bằng lăng hiếm hoi của
môt cánh rừng đang bị đốt phá gần hết, như e ấp nép mình bên những lùm cây
dại và dây leo vướng mắc xung quanh . Chùm hoa lẻ loi này như muốn khoe
màu hồng tím 'nhàn nhạt' bên con suối lặng lờ trôi, bên
những khoảng tối do những lùm cây sót lại bên bờ khe. Một cánh rừng
trong cơn "hấp hối" - trống trải từng ngày cùng bao lùm cây còn lùm
cây dại, bao khúc gỗ mục gãy đổ nằm vắt vẻo đó đây. Tôi từng đốn hạ bao cây bằng
lằng nhưng chưa bao giờ gặp mùa hoa bằng lăng nở. Cho đến khi đốt cây xong rồi
thì tôi chẳng biết sắc hoa bằng lăng đẹp đẽ ra sao. Tôi chưa được
phút sung sướng, tận mắt chứng kiến màu tím bàng bạc hồng của loài
hoa này. Chùm hoa bằng lăng đơn độc hôm đó, đã ban cho tôi một cảm giác thích
thú, có thể tạm gọi là "chiêm ngưỡng" bên dòng suối vắng trong một
buổi chiều tàn.
Nhánh hoa 'đơn côi' như khép nép giấu mình bên dòng khe vắng. Nhánh hoa bằng lăng đó như muốn vươn mình lên khoảng trời cao để tìm về với rừng xanh, muôn ngàn cây cao vòi vọi. Nó chỉ nứt mầm từ một gốc bằng lăng mẹ còn sót lại bên kha, không biết rằng rừng và cây cao nay đã không còn. Nhánh hoa bằng lăng như đang muốn sống, muốn cống hiến vẻ đẹp của mình với thiên nhiên - tạo vật. Gốc cây bằng lăng mẹ từng sống chung với cánh rừng trùng điệp, một quá khứ phong phú biết bao. Tất cả giờ đã cùng nhau ra đi, trôi vào dĩ vãng thật xa. Rừng thiêng nay hình ảnh chỉ còn là khói, sương- huyễn hoặc... những sợi khói còn 'thoi thóp thở' và chẳng còn gì là "trăng trối" ngoài hình ảnh những đống cây rừng leo lét cháy xa xa.
Đám rẫy về chiều, chỉ còn tôi và khóm hoa bằng lăng lấp ló. Chỉ một mình
tôi khám phá cùng chiêm ngưỡng khóm hoa còn sót lại. Tôi chợt tiếc cho thân phận
nó, cũng như một rừng sắc tím bằng lăng giờ đã mất. Một sắc hoa rừng cạnh con
suối đơn côi; và có thể cùng bao cành cây khô gãy đổ... đang "chứng kiến"
cảnh biển dâu thay đổi cuộc đời.
Giòng suối vẫn nhè nhẹ trôi; róc rách qua vài hẻm đá hay thân cành gục
ngã. Từ bụi lách đầu ghềnh, tiếng chim bìm bịp kêu lên vài ba hồi như cùng nhau
tấu lên bản nhạc chiều tàn.
Tôi
ngắm cành hoa thêm lần nữa, rồi vội vàng bó lại rìu, rựa rồi đẩy
chiếc xe đạp lên dốc suối.
-Ngày mai về, mình sẽ không quên ngắm nhành bằng lăng này lần nữa trước
khi nó tàn.
Đường về đã quá chiều. Tôi vội đạp xe nhanh qua mấy đoạn
quanh co, gập ghềnh của vài cái rẫy cũ, bỏ hoang. Hôm nay bỗng nhiên tôi cảm thấy
hứng khởi, yêu đời. Con đường làng hôm đó sao nên thơ và đáng yêu một
cách khác lạ./.
Đinh
Hoa Lư tuyển tập
No comments:
Post a Comment