Tuesday, April 18, 2023

LÒ GẠCH NGÓI TRƯƠNG KẾ ĐƯỜNG LÊ HUẤN QUẢNG TRỊ XƯA

 

LÒ GẠCH NGÓI TRƯƠNG KẾ



    Chiếc xe  hàng (xe đò) từ Huế ra sẽ qua trạm kiểm soát Long Hưng rồi theo con đường mới đặt tên Lê Huấn để về bến xe Nguyễn Hoàng thị xã Quảng Trị. Mới vào đường Lê Huấn, nhìn qua phía trái chúng ta sẽ thấy một cái nhà lầu nằm trên một khuôn viên khá rộng và phía sau khu biệt thự đó chính là lò gạch ngói Trương Kế, nếu ai là người dân thị xã QT, đa số đều biết. 
Trước đó con đường này chưa có tên, sau này con đường mang tên cố Trung Tá Lê Huấn người tiểu đoàn trưởng của Trung Đoàn I đã hi sinh trong chiến dịch Hạ Lào. Thật vậy, chỉ có lò gạch ngói này và ngôi biệt thự làm khách trên xe mới để ý mà thôi. Lò đúc nằm sau nhường mặt trước cho chủ nhân xây căn lầu với kiến trúc tân thời hơn bên căn nhà ngói xây đã nhiều năm trước.

khu biệt thự trước Lò Gạch 

Toàn thành phố QT  hồi này xem chừng đa số đều dùng ngói gạch Trương Kế. Người mình hồi đó bình dị trong ngôn ngữ và cách gọi. Nếu sống trong thời này, người ta dùng nhiều tiếng như "Xưởng Gạch, Nhà Máy ..." vv để gọi tên. Người viết chỉ nhớ, hồi đó bà con mình chỉ gọi là "Lò Gạch..." vậy thôi.  Tiếng là Lò Gạch nhưng phía trước là nhà ở có cổng kín tường cao nên tôi chỉ ngó vô thôi.
Mà thật sự làm sao có công chuyện gì để phải xuống xe giữa đàng mà vô thăm lò này?
Dù sao tôi cũng biết những liếp gói móc nhà Ngoại tôi cùng bao nhiêu nhà khác đều làm từ đây. Nhà ngói móc phải có đòn tay rui mè mới móc ngói được. Có dịp lên mái nhà móc ngói mói thấy tên lò Gạch in trên từng tấm ngói ra sao?
Ngoài ra phải kể tới ngói âm dương tức là ngói liệt; kiểu này xưa hơn cũng do lò này đúc. Những căn nhà lợp ngói âm dương xưa hơn nhiều.
Dọc đường có những khu ruộng khai thác đất sét cung cấp cho lò gạch. Tại sao gạch viên lại ít chỉ có ngói là nhiều?
Thời này người ta đúc táp lô làm từ xi măng cát sạn vùa chắc vừa dày nhưng tốn kém hơn.
Xóm Cửa Hậu tôi có nhà Ông Dô làm thợ nề trong nhà con cái đều có thêm nghề đúc táp lô nên tôi còn nhớ.
Cát Sạn (sỏi) từ lòng sông Thạch Hãn. Thời này những thứ này từ lòng sông Thạch phong phú tưởng như vô tận- khác với thời này.
Trở lại cái Lò Gạch. Tại sao người viết nhớ đến nó. Trước tiên là hình ảnh một khu nhà biệt lập nhưng từa tựa một trang ấp nào đó của một phú gia. Ra đến ngoại ô gần Long Hưng Đại Nại nhưng có một biệt thự hay nhà lầu xây lên ở đây thì làm sao khỏi gây chú ý và ngạc nhiên cho hành khách ngồi trên xe đò Quảng Trị - Huế?
Những căn nhà ngói đỏ mới xây trong phạm vi thành phố QT dù sao cũng nhờ phương tiện này mới chống lại cái nóng Nam Lào. Nhà tranh không thể có ở thành phố nhưng những căn nhà lợp tôn mới là khốn khổ dưới sức nóng mùa hè và cái lạnh cắt da của mùa đông QT.
Đã bao năm ra đi; người QT ra đi và cái tên Lò Gạch Trương Kế cũng đi vào dỉ vãng.
Em gái tôi Đinh thị Hòa nay làm dâu của Họ Trương. Một chút tình thông gia quen biết khiến tôi viết vài dòng biết ơn một lò gạch đã góp phần xây dựng cho cái tỉnh Địa đầu Giới Tuyến một thưở nay xa lắc xa lơ.
Khu Định Cư Hội Yên sát Lò Gạch Trương Kế đều cùng chung số phận trong trận Chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972

Chiến sự  1972 thổi phăng tất cả. Cũng đồng số phận của Thánh Địa La Vang và cả Thành Phố Quảng Trị tất cả đều trở thành một đống gạch vụn thảm thương. 
Ôi chiến tranh sao quá đổ nát điêu tàn?! Người lính Thủy Quân Lục Chiến ngày Tái Chiếm có một phút giây đứng lại vị trí năm xưa bên cạnh cái lò Gạch Ngói này mà lưu lại một khoảnh khắc chạnh lòng cho Đất Mẹ.  Những đống hoang tàn trên một vùng đất Giới Tuyến có số phận một lò gạch chuyên lo chuyện DỰNG XÂY nhưng số phần đất nước đã định rồi người làm chuyện xây dựng cũng phải ra đi và cả cái lò kia cũng đành mất dấu.  Nếu một ai đo mai này trên đất dưới trời Quảng Trị nay là biển dâu thay hình đổi dạng và đắm chìm trong cảnh sống xôn xao hãy nhớ về ngày xưa Quảng Trị từng có một cảnh sống thanh bình và những lớp người đã RA ĐI biền biệt nay chẳng trở về./.

Đinh hoa Lư edition 27/7/2019
edit 18.4.2023
hình: Biệt thự lò gạch Trương Kế từ thập niên 1960 cho đến mút cuối cùng 1972


 viên ngói móc thời trước 1972 gia đình ông Trương Kế còn giữ làm kỷ vật (hình dưới)

NHÂN LOẠI TRẢ GIÁ RA SAO KHI LẤN SÂU VÀO SỨC MẠNH CỦA THƯỢNG ĐẾ


 SỨC MẠNH HẠT NHÂN TỪNG Ở TRONG SỨC MẠNH VŨ TRỤ 



Phản ứng hạt nhân của vũ trụ đã xảy ra từ xưa. 
Đối với mặt trời Cứ mỗi giây đồng hồ mặt trời 
biến đổi 600 triệu tấn hydrogen thành helium
 phóng thích một năng lượng khổng lồ mà chúng ta
không thể tưởng tượng nổi. 
Sức mạnh hạt nhân rõ ràng là sức mạnh của Vũ Trụ, nói khác đi là phép mầu của Thượng Đế.
NHƯNG?

KHI CON NGƯỜI ĐÃ LẤN SÂU VÀO THẾ GIỚI MẦU NHIỆM CỦA THƯỢNG ĐẾ VỀ "SỨC MẠNH VŨ TRỤ" ĐÓ LÀ SỨC MẠNH HẠT NHÂN NGUYÊN TỬ PHẢI CHĂNG NHÂN LOẠI ĐANG PHẢI TRẢ GIÁ?




A BOMB ON HIROSHIMA CITY JAPAN 6/8/1945


Thưa bạn
Câu hỏi đó chỉ dành cho chúng ta khi bình tâm suy nghĩ.

PHẢI CHĂNG SỨC MẠNH HẠT NHÂN CHỈ NÊN NẰM TRONG TAY SINH LINH THUẦN THÁNH

Sự xâm phạm vào thế giới của hạt nhân nguyên tử trong lúc bản chất của loài người hay sự thật của thế giới nhân quần còn quá nhiều điều bất hảo. Thế giới bất lương đã từng bốc trần sức mạnh nhiệm mầu của hạt nhân nguyên tử một sức mạnh tầm vóc của vũ trụ mà thượng đế đã nắm quyền cai quản.

NHƯNG CON NGƯỜI ĐÃ VÀ ĐANG LẠM DỤNG NÓ

Hậu quả thảm khốc thứ hai này chắc chắn đã và đang giáng vào nhân loại những đòn trí mạng?

PUTIN đang dùng lá chắn hạt nhân nguyên tử để thôn tính và xâm lăng và y đang thành công trong việc sáp nhập các phần đất của Ukraine thành lãnh thổ của Nga.

Hiện nay Tây phương đang ngần ngừ trong việc chấp nhận Ukraine thành NATO trong lúc cuộc chiến đang xảy ra.
VẤN ĐỀ UKRAINE THÀNH NATO TỨC NHIÊN LÀ XẢY RA CHIẾN TRANH NGUYÊN TỬ VỚI NGA
RÕ RÀNG ĐỘC TÀI PUTIN TỪNG BƯỚC CHIẾN THẮNG KHI DÙNG SỨC MẠNH HẠT NHÂN LÀM TÊN LÍNH XUNG KÍCH MỞ ĐƯỜNG

THẾ GIỚI CHÚNG TA ĐANG VÀO THẢM HỌA KHI VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀO TAY CÁC TÊN ĐỘC TÀI HIẾU CHIẾN

Ngày PHÁN XÉT QUÁ GẦN khi các núi vũ khí hạt nhân ghê rợn đang nằm trong tay loại người ĐỘC TÀI GIAN TRÁ

Thế giới hiện tại đang lay hoay, hỗn loạn tâm trí do Putin tha hồ bắt nạt dọa dẫm nhân loại bằng VŨ KHÍ HẠT NHÂN mà sức mạnh dọa nạt của tên độc tài hiếu chiến này là CÓ THẬT
Bầu trời Đông Á có một bạo chúa là Kim Jong Un, hắn càng lúc càng có cơ hội thủ đắc vũ khí hạt nhân.
Thế giới nhân quần cuống cuồng lo sợ là có thật.
Cho đến nay, chúng ta tự hỏi BẢN CHẤT của nhân loại hay loài người nói chung có ĐỦ PHẨM CHẤT LƯƠNG HẢO để dấn sâu vào thế giới NHIỆM MẦU CỦA SỨC MẠNH HẠT NHÂN HAY CHƯA?

CON NGƯỜI LÀ TẠO PHẨM THIÊNG LIÊNG DO THƯỢNG ĐẾ SINH RA, Ý NGHĨA ĐÓ ĐANG MAI MỘT DẦN TRONG THỜI ĐẠI THÔNG MINH NHÂN TẠO, ROBOT VÀ CÁCH MẠNG VỀ GENE


Trí thông minh nhân tạo AI
do con người tạo ra nhằm dần dà lấy đi chức năng của hóa công. Những loài robot có tính năng giống người sẽ do con người tạo ra chúng có thể quan hệ xác thịt giống người sau khi có khả năng tư duy để tạo ra hàng loạt robot khác. Những loài robot biết giết người và tính toán để giết người trong quân sự cũng được sản xuất hàng loạt. Các nhà bác học đã cảnh báo trong tương lai robot sẽ chỉ huy và làm chủ con người.

Con người đã biết lợi dụng và kiến tạo ra sức mạnh vũ trụ trong vũ khí hạt nhân để thôn tính và giết chóc lẫn nhau; rõ ràng là một sự trừng phạt của thượng đế khi sức mạnh hủy diệt của nó đã thành hiện thực trong quá khứ và đe dọa nhân loại trong chiến tranh hiện nay.
Người ta ngợi khen và tự mãn về gene và di truyền học nhưng đã đạp đổ giới hạn của hóa công để tự tạo nên những sinh vật ngoại hạng chứ không phải là người. Có một loại người thời nay sinh ra chỉ là kết quả của một sự phối hợp hoàn toàn nhân tạo không nguồn gốc không do quan hệ trời ban giữa nam và nữ. Họ là ai? đó là giống người ngoại hạng đến từ một cõi u minh xa lạ? Rồi những con vật quái đản do con người tạo ra những con người robot sẽ xuất hiện chúng sẽ quái đản đến mức ngang tầm với "quan hệ nam nữ" mà Tạo Hóa ban cho con người.

Thế giới sẽ đi về đâu? Hãy nhìn sự gia tăng của giống người không nam chẳng nữ càng ngày càng gia tăng trong xã hội?
Có thể đây là sự trả lời của Thượng Đế.

KHI CÁNH CỬA NHIỆM MẦU CỦA TẠO HÓA đã bị nhân loại đạp đổ tự ý xông vào tự tung tự tác lạm dụng tự kiêu? Trong đó phải chăng loài người đã LẤN QUYỀN VÀ LẠM QUYỀN THƯỢNG ĐẾ VÀO HAI THẾ GIỚI DI TRUYỀN CÙNG HẠT NHÂN NGUYÊN TỬ?

Putin đang dùng thanh kiếm hạt nhân làm mũi tiên phong đi đe dọa và xâm lăng nhưng thế giới dù chống cự đến đâu nay cũng đành bó tay trước núi vũ khí hạt nhân mà Nga đang thủ đắc. LHQ kêu gọi bao nhiêu cũng đành thúc thủ.
TOÀN CẦU ĐANG HỐI HẢ THỦ ĐẮC VŨ KHÍ HẠT NHÂN ĐÂY LÀ MỘT SỰ THẬT RẤT CAY ĐẮNG DO NHÂN LOẠI TỰ MÌNH RƯỚC HỌA VÀO THÂN
VŨ KHÍ HẠT NHÂN ĐANG BIẾN THÂN THÀNH CÁI 'VÒNG KIM CÔ' MÀ THẾ GIỚI KHÔNG TRÁNH ĐƯỢC ĐẾN TỪ LỢI THẾ SIÊU ĐẲNG CỦA TẤN CÔNG, TỰ VỆ CÙNG CHIẾN THẮNG CUỐI CÙNG VÀ CŨNG LÀ SỰ TỰ DIỆT CUỐI CÙNG
CHÚNG TA PHẢI CHĂNG ĐI ĐẾN KẾT LUẬN CUỐI CÙNG ĐÂY LÀ HIỂM HỌA CHẤM DỨT SỰ SỐNG CÒN CỦA TRÁI ĐẤT NẾU SỰ SA ĐÀ THEO VŨ KHÍ HẠT NHÂN CỦA LOÀI NGƯỜI KHÔNG CHẤM DỨT?
CÂU HỎI NÀY RẤT TO LỚN

KHOA HỌC KỸ THUẬT TIẾN LÊN ĐỈNH CAO CỦA THẾ GIÓI AI VÀ ROBOT HÓA MỌI SỰ PHẢI CHĂNG LÀ THIÊN ĐÀNG HẠ GIỚI?

CÁCH MẠNG về khoa học kỹ thuât và phát triển vật chất nhưng khi nhân loại còn thui chột về đạo đức cùng triết lý nhân sinh thì sẽ đem lại khủng hoảng.

Hậu quả này không từ ngoài vũ trụ đưa lại cho con người mà do nhân loại tự tạo lấy.

Nhất là lúc SỨC MẠNH HẠT NHÂN HAY SỨC MẠNH VŨ TRỤ LẠI LỌT VÀO TAY BỌN ĐỘC TÀI BẤT HẢO ./.


ĐHL


Sunday, April 16, 2023

HỒI KÝ ĐẠI TƯỚNG CAO VĂN VIÊN- SỰ Thật về LỜI ĐỒN VNCH 'THẢ BOM NGUYÊN TỬ' TẠI MẶT TRẬN XUÂN LỘC



Đại Tướng Cao Văn Viên sanh ngày 11/12/1921 Tại thành phố Vạn Tượng , Lào Quốc. Gia cảnh Vợ và 4 con, Ông có bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp tại  trường  Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.

- Tốt nghiệp Trường Quân Sự Cap Saint Jacque ( Vũng Tàu ) năm 1949

- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth Leavenworth, Hoa Kỳ

- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH

- Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH

- Chứng Chỉ Nhảy Dù Quân Lực Hoa Kỳ

- Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ


***


THẢ BOM Ở ĐỘ CAO 

Trong những tháng cuối của cuộc chiến, BTTM (Bộ Tổng Tham Mưu) xử dụng phi cơ vận tải C-130A vào cuộc dội bom chiến thuật để thay vào hỏa lực của chiến đấu, oanh tạc cơ không hoạt động hữu hiệu được vì hỏa lực phòng không của địch. C-130 có thể chứa được 8 kiện hàng, mỗi kiện hàng chứa bốn thùng dầu phế thải. C-130 được hướng dẫn đến mục tiêu bằng máy truyền tin và thả những thùng dầu phế thải này từ độ cao 15 đến 20 ngàn bộ (5 đến 7 cây số).  Chu vi sát hại của những thùng dầu này có đường kính 150 đến 450 mét.


C-130A QLVNCH

    C-130 cũng có thể chở 32 trái bom loại 250-500 cân, hay 21 bom 750 cân, trên tám kiện hàng. Bom cũng thả từ cao độ 15-20 ngàn bộ. Binh sĩ ở mặt trận rất phấn khởi khi chứng kiến những cuộc dội bom đó. Họ gọi là "mini-B-52," hay "B-52 Việt Nam." Sau phi vụ đầu tiên thả xuống chiến khu C ở Tây Ninh, dân quân tưởng đó là B-52; lời đồn không quân Hoa Kỳ trở lại Việt Nam lan truyền ra nhanh chóng.

           Gần những ngày tàn của cuộc chiến, cộng sản tụ quân, và thiết lập các căn cứ hậu cần ngụy trang rất sơ sài, dễ quan sát từ trên không. Đây là những mục tiêu tốt cho vũ khí chiến lược có sức tàn phá mạnh. Cuối tháng 2, 1975, qua những lần viếng thăm Saigon của thứ trưởng quốc phòng Eric von Marbod và đại tướng Weyand, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam những loại bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Loại bom Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam là bom có phiến danh "Daisy Cutter,"nặng 15 ngàn cân. Không quân Hoa Kỳ dùng bom này để phá rừng, làm bãi đáp trực thăng cho cuộc chiến. Hoa Kỳ hứa gởi cho 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện xử dụng bom trong vòng một tuần.


        Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, và cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn không quân Việt Nam gắn ngòi nổ và cách vận chuyển bom trên phi cơ. Nhưng người phi công HOa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom thì không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường--và sự nguy hiểm khi phải chứa loại bom này ở phi trường Tân Sơn Nhất hay Long Bình, BTTM và bộ tư lệnh Không Quân quyết định chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom. Chiếc C-130 và quả bom "Daisy Cutter" cất cánh vào lúc nửa đêm nhưng sau hai chục phút lại hạ cánh. Các sĩ quan không quân hữu trách và Bộ TTM vô cùng lo sợ cho tai nạn xảy ra khi phi cơ hạ cánh với quả bom còn trên phi cơ. Tuy nhiên phi cơ quay về vì một lý do kỹ thuật nhỏ. Phi cơ cất cánh lại sau ba mươi phút.


bom Daisy Cutter dùng phá rừng
hình 1 trái Daisy Cutter bom

        Vào một giờ sáng phi cơ thả trái "Daisy Cutter" đầu tiên cách Xuân Lộc sáu cây số về hướng Tây Bắc. Thành phố Xuân Lộc bị rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động--bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy. Tinh thần binh sĩ VNCH phẩn khởi. Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18 BB ở mặt trận Xuân Lộc hỏi, "BTTM còn nhiều loại bom đó không?" Tin đồn loan truyền nhanh ngoài quần chúng là chúng ta đang được trang bị bom nguyên tử. Cộng Sản Bắc Việt lên tiếng nguyền rũa VNCH và Hoa Kỳ đã xử dụng vũ khí tàn phá chiến lược. 

        Dùng bom phá rừng "Daisy Cutter" đánh vào các điểm tập trung quân của địch có kết quả tốt: tinh thần chiến đấu của ta phấn khởi. Nhưng vì thiếu nhiên liệu, ít bom, và khó khăn về bảo trì, sửa chữa, nên không quân chỉ bay được từ hai cho đến bốn phi vụ C-130 mỗi ngày.

        Trong cuộc tổng tấn công của cộng sản năm 1972 chúng ta cũng bị thiệt hại nặng, nhất là ở Vùng I. Nhưng lúc đó BTTM có thời gian và phương tiện để bổ xung và củng cố lại tất cả các đơn vị bị thiệt hại. Và chỉ sau một tháng quân đội chúng ta sẵn sàng chiếm lại các phần đất mất vào tay địch. Chúng ta có được thời gian ở chiến trường vì có được trợ giúp của không lực chiến thuật của Hoa Kỳ, nhất là pháo đài bay B-52. Không nhờ các cuộc oanh tạc không ngửng của pháo đài bay yểm trợ quân ta, chúng ta chắc không giữ nổi KonTum hay An Lộc. Trong thời gian đó, B-52 được sử dụng đều đặn gần như phi cơ chiến thuật yểm trợ tiếp cận.

        Trong khi ngoài chiến trường pháo đài bay B-52 cung cấp hỏa lực khủng khiếp, ở hậu phương vận tải cơ C-130, C-5, C141, hay C-130 chuyên chở vũ khí và quân cụ tiếp viện cho quân ta ngày đêm liên tục. Vào năm 1972 chúng ta không thiếu bất cứ gì--từ tiền cho đến vũ khí. Quân đội chúng ta lúc đó không lo về thiếu thốn; họ chỉ lo làm sao nhận và chuyển đồ ra mặt trận đúng theo lịch trình tiếp tế mà thôi.

        Nhưng năm 1972 là một tương phản rất xa so với năm 1975; thay vào chỗ của pháo đài bay B-52, chúng ta chỉ còn được một trái bom 15 ngàn cân; vũ khí và quân cụ phải biến chế xử dụng. Đến giữa tháng 4, 1975, chúng ta đã xài hết quân dụng, vũ khí tồn kho, vào việc tái trang bị các đơn vị di tản từ hai Vùng I và II. Đến giờ phút muộn màng đó , dù chúng ta có nhận được 300 triệu mỹ kim viện trợ đi nữa, tình hình đã quá trễ.


Cao Văn Viên 

nguồn 

Sách

Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hòa. 1st Ed. Nhà Sách Văn Bút Westminter, 2003 (trang 201-203)


Saturday, April 15, 2023

Mark Moyar- CAY ĐẮNG CỦA TÁC GIẢ TỪNG VIẾT RA SỰ THẬT CỦA CHIẾN TRANH VIỆT NAM TRONG CUỐN CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN

 



CUỘC CHIẾN VN ĐÚNG RA HOA KỲ VÀ ĐỒNG MINH ĐÃ CHIẾN THẮNG  


TT Lyndon B. Johnson và Ngoại Trưởng Dean Rusk 


NHỮNG KHÁM PHÁ BẤT NGỜ


Từ năm 1990 tôi (Mark Moyar) đã quan tâm khảo sát về cuộc Chiến tranh Việt Nam lúc tôi là sinh viên về Khoa Lịch Sử về Chiến Tranh Thế Giới (xung đột thế giới). Có vấn đề thu hút tôi nghiên cứu về với chủ đề này đến từ tâm lý khinh miệt của các đồng nghiệp, giáo sư và kể cả giới trí thức nói chung không chỉ dành cho chiến tranh mà còn dành cho các cựu chiến binh trở về từ cuộc chiến. Riêng đối với tôi, tôi cho rằng đó quả là một lỗi lầm sâu sắc khi cho rằng những thanh niên Hoa Kỳ từng ra đi và liều mạng ở chiến trường Đông Nam Á lại bị coi khinh là kém xứng đáng hơn những người đã sống ru rú cùng an vui ở nhà.

Vấn đề thứ hai làm tôi phải đào sâu nghiên cứu do thói thường phần đông người ta cứ cho là Cuộc Chiến VN không bao giờ có thể thắng được. Theo biên khảo của nhiều sách vở lịch sử dòng chính, Hoa Kỳ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến do người Cộng sản Việt Nam luôn cống hiến hi sinh và sự hi sinh đó  được cho là vượt trội hơn nhiều so với các đồng minh Nam Việt Nam của Hoa Kỳ. Cũng vì lý do đó, nên không thể có chiến lược thay thế hay hơn nào có thể đạt được thành công trong cuộc chiến, và do vậy người Mỹ đã phải từ bỏ VNCH sau khi chịu thương vong và tổn thất quá lâu dài.

    Lên Cao Học, khi tôi tiếp tục theo đuổi nghiên cứu về Chiến Tranh Việt Nam, tôi bắt đầu đặt câu hỏi về cả hai điều trính bày trên. Tôi đào sâu vào những kẽ hở sâu xa của cuộc chiến, từ đó tôi đã thu được vô số thông tin chưa được khai thác về một hướng nghiên cứu khác. (Tôi có được nhiều khám phá phong phú hơn đó là nhờ Merle Pribbenow, một nhà ngôn ngữ học nghỉ hưu, ông đã tìm tòi và dịch rất nhiều tài liệu và lịch sử từ phía miền bắc VN.) Những nguồn tư liệu của miền Bắc  đã làm sáng tỏ thêm những tranh luận bao lâu nay. Các tư liệu mới cho thấy miền bắc thật ra đã lãnh đạo các cuộc “kháng chiến” tại miền Nam Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên dù Hà Nội từng  thuyết phục và tuyên truyền cho phương Tây cả tin rằng kháng chiến đó chỉ là ‘phong trào địa phương’ thuần túy. Họ cũng bác bỏ quan điểm mà ai cũng tin là chính phủ VNCH rõ ràng từng quay cuồng về mặt quân sự sau thời điểm Ngô Đình Diệm bị ám sát vào tháng 11 năm 1963.

    Có những khám phá khác đó là kết quả nghiên cứu thêm các khía cạnh bị bỏ quên cho đến nay của cuộc chiến đó. Chẳng có nhà sử học nào trước đó đã xem xét chi tiết những gì diễn ra trong ván cờ “domino” lân cận khi Lyndon Johnson đưa ra quyết định định mệnh vào năm 1965 là đưa bộ binh Hoa Kỳ vào miền nam VN. Trên thực tế, ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Úc, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore, các nhà lãnh đạo chống Cộng đã cảnh báo trước rằng sự sụp đổ của VNCH sẽ khiến tất cả các quân domino Đông Nam Á sụp đổ theo. Họ đã đề nghị đưa quân vào cuộc chiến với mục đích chống lại chủ nghĩa CS. Đột nhiên, lý thuyết domino đó xem ra có vẻ hợp lý hơn nhiều.


CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN


Khi tầm rộng của lãnh thổ  trở nên rõ ràng, tôi đã dự kiến và hoàn thành BA TẬP về Chiến Tranh VN. Tập thứ Nhất- kể từ năm 1954 đến năm 1965, tôi đã mất bảy năm để hoàn thành. Tập thứ NHẤT này có tiêu đề “ CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN Triumph Forsaken”, nó nhanh chóng  bị xem là ‘CHỦ NGHĨA XÉT LẠI’. Lý do,  ý nghĩa của tập này căn bản nó thách thức tính chính thống đang ngự trị nước Mỹ. Phải kể ra đây, nó đi cùng với một số ít sách khác trong danh mục đại loại như  A Better War” của Lewis Sorley và “Dereliction of Duty” của H. R. McMaster.

Cuốn Triumph Forsaken cho chúng ta hay rằng Hồ Chí Minh là một người Cộng sản có học thuyết Cộng Sản. Giống như các đồng minh Liên Xô và Trung Cộng,  ông ta là biết tuân thủ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin  rằng những người Cộng sản nên hợp tác trong việc truyền bá cách mạng thế giới. Vào thời điểm TT Lyndon B. Johnson quyết định đưa bộ binh tham chiến  tại miền nam Việt Nam, Hồ chí Minh và đồng minh CS đã gần đạt được mục tiêu là biến toàn bộ Đông Nam Á thành Cộng sản, và rất có thể họ đã thành công nếu Hoa Kỳ không ra tay kịp. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã tạo ra khả năng làm tiên đề cho một cuộc đảo chính chống Cộng sản ở Indonesia và sự tự tàn phá của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, đồng thời giúp các quân cờ domino châu Á khác tăng cường khả năng phòng thủ.


Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge và TT Ngô Đình Diệm tháng 8 năm 1963

SAI LẦM TỪ MỘT TỔNG THỐNG CHO ĐẾN ÔNG ĐẠI SỨ

 Tôi (Mark) cho rằng chiến tranh không chỉ cần thiết mà còn có thể chiến thắng bằng các quyết định chiến lược tốt hơn thế. Sai lầm nghiêm trọng nhất là quyết định của đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam đó là ông Henry Cabot Lodge người đã xúi giục đảo chính lật đổ chế độ ông Ngô Đình Diệm, làm sụp đổ bộ máy an ninh VNCH và  gián tiếp giúp Bắc Việt bắt đầu  tiến hành cuộc xâm lăng to lớn vào miền Nam. Có thêm một sai lầm khác, quyết định của TT Johnson không đưa lực lượng bộ binh Mỹ vào Lào để chặn Đường mòn Hồ Chí Minh, một động thái quá thiếu thông minh do điều đó có thể làm thay đổi cục diện cuộc chiến và giảm nhu cầu về lực lượng Mỹ tại miền nam.

Cuốn sách Triumph Forsaken đã tạo ra nhiều cuộc bàn tán, thảo luận đáng kể trong giới học giả, bao gồm một lượng lớn phản hồi, “ Chiến Thắng Đã Thấy”. Có một số thảo luận mang tính xây dựng, nhưng phần lớn trong số đó tẩy chay, nhỏ nhặt, thậm chí là nói xấu với người khác. Có điều đặc biệt khi chuyện này đến tai các cựu chiến binh thuộc phong trào phản chiến cùng những người được họ bảo trợ. Mặc dù một số ít giáo sư hoan nghênh, có không ít thách thức chứng minh rõ ràng đối với tầng lớp hiểu biết nông cạn, thì cuốn sách đó chỉ nhận lại sự thù địch tập thể của số đông và kết quả gây thất bại cho tôi nộp đơn xin vào làm một vị trí giảng viên hàn lâm viện đều bị chống phá gay gắt.

Tôi nói ra sự thật này không phải để được CHO NHẬN  vào tầng lớp nạn nhân ngày càng nhiều của Hoa Kỳ - những bất hạnh của tôi với giới học giả lại dẫn đến may mắn bất ngờ là được vào dạy những sinh viên xuất sắc tại các trường đại học quân sự của Hoa Kỳ để tiến hành nghiên cứu về các chủ đề quân sự cần thiết và cấp bách nhất. Thay vào đó, nó chỉ ra những mối nguy hiểm đối với xã hội của một học viện bị chính trị hóa. Khi một nghề chứng minh rằng biết phát triển dựa trên những ý tưởng mới và tranh luận thay vì tẩy chay những người đưa ra những quan điểm chính thống nhất định, thì nó không bao giờ tước đi cơ hội tiếp cận của sinh viên với những suy nghĩ nghiêm túc và sẽ không khuyến khích phần còn lại của xã hội phớt lờ nó. Cách duy nhất để có kết quả tốt đẹp trong nghiên cứu quân sự là chứng tỏ rằng nó cởi mở với những thách thức và  sẽ xem xét nghiêm túc những ý tưởng mới.

Thách thức trong các quan điểm chính thống xung quanh Cuộc Chiến Việt Nam ngày nay cũng có vai trò cần thiết hơn bao giờ hết. Khi tôi làm cố vấn nghiên cứu quân sự tại  Afghanistan, Iraq và các vùng xung đột khác, tôi đã thấy các chính trị gia, sĩ quan quân đội, nhà báo và nhà khoa học chính trị tìm cách áp dụng các bài học của Cuộc Chiến Việt Nam. Càng khảo sát, tôi càng tin rằng họ hiểu biết khá hời hợt về lịch sử chiến tranh đó. Thêm vào đó, họ tỏ ra phụ thuộc quá nhiều vào lý thuyết học thuật cũ từng  mang lại cho họ những kinh nghiệm tệ hại sai lầm -  những kinh nghiệm chiến tranh sai lạc càng mang tới nhiều cái chết cho đàn ông và đàn bà, thậm chí có thể thua cuộc trong cuộc chiến tranh mới.

Thực tế trong nghiên cứu gần đây, tôi tập trung vào các sự kiện lịch sử của năm 1967, trong chiến tranh VN và tôi đã đưa ra ánh sáng những điều mới mẻ, quan trọng trong các cuộc hội luận tại Hoa Kỳ các tác động quyết định do chiến tranh mang lại. Trong số những sự kiện lý thú và hấp dẫn nhất của năm 1967 là sự hối tiếc của chính quyền Johnson  khi Johnson quyết định không tạo ra sự tìm cách thảo luận công khai trong nước để tạo ra làn sóng hay phong trào ủng hộ cho cuộc chiến do sự cần thiết của cuộc chiến đáng cần phải có. Các quan chức Hoa kỳ giờ đây mới nhận thức rằng sự thiếu nhiệt tình của công chúng đối với cuộc chiến càng khuyến khích đối phương tin rằng Hoa Kỳ cuối cùng sẽ từ bỏ đồng minh, và do đó Bắc Việt Nam không có lý do gì để bỏ cuộc.


MỘT CUỘC CHIẾN KHÔNG THỂ CHIẾN THẮNG NẾU NGƯỜI DÂN HOA KỲ KHÔNG BIẾT VÀ KHÔNG CẦN BIẾT LÀ ĐANG CÓ CHIẾN TRANH


Cố ngoại Trưởng Dean Rusk nhận xét vào tháng 10 năm 1967 rằng, “Chính phủ đã đưa ra một quyết định có chủ ý là không tạo ra tâm lý chiến tranh ở Hoa Kỳ…” bởi vì nó “quá nguy hiểm cho đất nước Hoa Kỳ ” Johnson, Dean Rusk và các quan chức khác đã lo sợ rằng cơn sốt chiến tranh sẽ làm suy yếu các chương trình nội địa như Chương Trình Great Society và làm gia tăng căng thẳng với Liên Xô. Nhưng rồi, Ông Rusk thừa nhận, “có thể đây là một sai lầm; có lẽ sẽ tốt hơn nếu thực hiện các bước để xây dựng ý thức về một quốc gia đang có chiến tranh.”

    Suốt năm 1967, các cố vấn tại Bạch Ốc và các nhà lãnh đạo nước ngoài đã nhiều lần thúc giục TT Johnson thay đổi hướng đi, nói với công chúng Mỹ lý do tại sao Hoa Kỳ có mặt tại miền nam Việt Nam và những gì họ đang cố gắng đạt cho được. Nhưng TT Johnson không thể tự mình làm điều đó, ngay cả khi ông ngày càng nhận ra những hậu quả tai hại của sự im lặng của ông. “Nếu lịch sử buộc tội chúng ta vì sự kiện Việt Nam,” TT Johnson thừa nhận vào mùa thu 1967, “thì do tiến hành một cuộc chiến mà không cố gắng khơi dậy lòng yêu nước.”

Trong trường hợp thiếu sự cổ vũ khởi xướng của tổng thống, sự ủng hộ của công chúng Hoa kỳ đối với chiến tranh VN đã giảm sút trong suốt năm 1967. Như các quan chức chính quyền từng lo sợ, sự suy yếu quyết tâm của Mỹ lại củng cố quyết tâm kiên trì của Bắc Việt. Hà Nội rõ ràng đã từ chối mọi lời đề nghị đàm phán hòa bình của Mỹ, CS Hà Nội dự đoán rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân sắp tới sẽ phá hủy những gì còn lại của ý chí người dân Hoa Kỳ.

Nói cách khác, việc công chúng quay lưng lại với chiến tranh VN là điều không thể tránh khỏi; đúng hơn, đó là kết quả của sự thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải thích và thuyết phục người dân Mỹ ủng hộ nó.

Nửa thế kỷ sau, hôm nay với việc đất nước Hoa Kỳ đang vướng vào hai cuộc chiến tranh khác biệt, kéo dài và khả năng những cuộc xung đột khác có thể bùng phát bất cứ lúc nào, Chiến Tranh VN  là một bài học mà các nhà lãnh đạo hiện tại của chúng ta nên ghi nhớ.

Mark Moyar

ĐHL Dịch thuật và tựa đề 

Mark Moyar, giám đốc Trung tâm Lịch sử Quân sự và Ngoại giao, là tác giả của cuốn sách “Oppose Any Foe: The Rise of America’s Special Operations Forces” và “Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965.”

 Nguồn

Opinion | Was Vietnam Winnable? - The New York Times (nytimes.com)

MARK MOYAR- BỎ RƠI VIỆT NAM



 Abandoning Vietnam


Moyar sinh năm 1971,  tốt nghiệp cử nhân tối ưu (summa cum laude) về sử học tại Đại Học Harvardtiến sĩ sử học tại Đại Học Cambridge. Ông thuờng viết cho các tờ báo lớn tại Mỹ như New York Times, The Wall Street Journal và Washington Post

Mark Moyar là cố vấn quốc phòng và tác giả của "Chiến Thắng Bỏ quên: Cuộc Chiến Việt Nam 1954-1965.
(Triumph Forsaken: the Vietnam War 1954-1965 Mark Moyar)

======= 

George J. Veith là cựu đại úy trong quân lực Hoa kỳ, tác giả cuốn Code Name Bright Light: the Untold Story of U.S POW Rescue Efforts during the Vietnam War (1998) … the Black April The Fall of South Vietnam

---------------------
..trong tương lai khi Hoa kỳ suy tính sự viện trợ cho A phú Hãn, cuốn "THÁNG TƯ ĐEN' nhắc nhở thế giới chuyện đau lòng, cái giá của biết bao sinh mạng khi bỏ rơi bạn, một đồng minh khốn khổ đang bị bao vây...

Dr. Mark Moyar

***


   Từ giây phút chuyến trực thăng cuối cùng bay khỏi tòa đại sứ Mỹ Sài gòn vào tháng Tư 1975, đó là thời sụp đổ của Miền Nam VN cũng là thời điểm đáng nhớ nhất về sự chấm dứt của một cuộc chién mà người Mỹ can dự.

Cánh bồ câu (Democrats/Dân Chủ) thì mãi đổ tội bằng những luận điệu vô lý lên sự thất bại của một đồng minh nước Mỹ. Họ cho rằng bởi đồng minh này quá yếu kém và không đáng giá để hỗ trợ?
 Cánh diều hâu ( Republicans/ Cọng Hòa) thì đổ tội cho quyết định ngu ngốc từ các chính trị gia Mỹ về việc cắt giảm viện trợ đã làm non 60 ngàn sinh mạng thanh niên Mỹ hi sinh oan uổng.

Thế mà khác với các kịch bản trước đây trong cuộc chiến Việt Nam, sự hạ màn đau khổ này chỉ nhận được vài sự an ủi qua loa từ các sử gia. Các tác giả có những bài viết tạm coi là hoàn hảo cũng chỉ lướt nhanh qua giai đoạn từ 1973-1975 thôi - Một giai đoạn không còn sự hiện diện của lực lượng chiến đấu nào của Mỹ cùng sự quan tâm ít ỏi từ giới báo chỉ Hoa kỳ hay ngay cả các giới chức dân sự. Một giai đoạn mà các giới chuyên khảo thiếu nhiều tài liệu Anh ngữ để nghiên cứu.

========

TS George J. Veith là tác giả 4 cuốn sách về Chiến tranh Việt Nam, trong có các cuốn liên quan đến Chiến Tranh VN như:

-Code Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the Vietnam War (1998),

-Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975 (2012),

- Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams (2021)

Ông viết nhiều về Chiến tranh Việt Nam, diễn thuyết tại nhiều hội nghị cũng như điều trần về vấn đề POW/MIA trước Quốc hội Hoa Kỳ. Cuốn sách thứ tư của ông là một lịch sử chính trị, xã hội và kinh tế về sự trỗi dậy và sụp đổ của miền Nam Việt Nam.

Ông tốt nghiệp PhD tại Đại Học Monash tại Melbourgh, Victoria  Úc Đại Lợi









George J. Veith

====== 
chiếc trực thăng liều lĩnh đậu cheo leo trên một building để bốc người tại SG những giờ phút cuối cùng


George J. Veith trong cuốn Tháng Tư Đen và sự Sụp Đổ của Miền Nam (2012) đã có công xóa đi khoảng trống lịch sử nói trên. Trong một nhận xét đặc biệt, ông đã khai thác đúng đắn các sự kiện bị lãng tránh. Tác giả từng phỏng vấn các sử gia miền bắc cũng như một số cấp chỉ huy quân sự của miền nam. Bằng nhiều chi tiết cặn kẽ, ông đã trình bày 'từng núi' chi tiết giúp giải tỏa được các câu hỏi chính yếu lịch sử.

Dẫu rằng các lãnh đạo miền nam từng phạm nhiều lỗi lầm quan trọng trong cuộc chiến 1975 chống trả sự tấn công của miền Bắc, nhưng ông Veith cho rằng sự thất bại kia không đến từ sự một chính quyền thiếu khả năng và từ một sự chiến đấu kém cỏi!  Cuộc chiến 1972 và những trận đụng độ của Mùa Hè Đỏ Lửa hay những trận đụng độ lớn trong thời gian 1973-74 nhưng ít ai biết, các cấp chỉ huy quân sự miền nam từng chứng tỏ các khả năng bất ngờ. Trong trận tấn công cuối cùng của Bắc quân, các cấp chỉ huy và các đơn vị miền nam đã chiến đấu dũng mãnh quá bất ngờ. Nếu người Mỹ nhớ lại thì rõ ràng trong chiến thắng Trận Xuân Lộc, một sư đoàn miền nam chống lại được ba sư đoàn Bắc việt. Nhưng ông Veith cũng ghi lại thêm những trận đụng độ khác vào tháng Ba và tháng Tư 1975 bao gồm những cuộc chiến đấu mạnh mẽ của miền nam từ Mõ Tàu đến Núi Bông phía bắc, từ Bến Cầu đến Chơn Thành chặng giữa, cùng tại Cần Thơ và Long An ở miền nam.

Với minh chứng đầy thuyết phục, ông Veith cho rằng chính sự cắt giảm 'ác liệt' quân viện cho miền Nam xuống chỉ còn một nửa do Quốc Hội Mỹ đã dẫn đến sự thất bại cho họ (VNCH) vào đầu tháng Ba, khi miền Bắc bắt đầu mở màn cuộc tấn công quy mô nhất thì không quân miền nam thiếu nhiên liệu cùng phụ tùng thay thế cho các phi tuần chiến đấu làm sự phòng ngự yếu đi đến 900 dặm về mạn tây. Thế là Bắc quân có cơ hội tấn công cùng chiếm lĩnh một số thị trấn và thành phố quan trọng.

Thiếu hụt không vận, quân đội miền Nam thuờng xuyên dựa vào xe hay chủ yếu phải di chuyển bằng chân. Đồng bào của họ lại chạy theo với lính do lo sợ bị Cộng Sản thảm sát do bao ấn tượng thảm sát tại Huế 1968 hay Đại Lộ Kinh Hoàng 1972.  Phụ nữ, trẻ em cùng bao xe dân sự tha hồ tắc nghẽn các tuyến đường và cầu chính làm cuộc rút lui càng chậm chạp thêm... 

Đó là cơ hội cho Bắc quân xé nát đơn vị Nam quân.

Thời gian lực lượng phía Nam tháo lui nhằm xây dựng tuyến phòng ngự cho thành phố cạnh biển là Đà nẵng, có hơn một triệu dân cuống cuồng dồn đến một thành phố có hơn nửa triệu dân đang ở càng làm tăng thêm tình trạng hỗn loạn. Những con đường kẹt cứng xe dân sự, theo ông Veith, càng làm các xe quân sự khó lòng di chuyển nhằm phối trí lực lượng. Một số binh sĩ bận lo cho bà con hay gia đình vượt thoát. Một ví tướng sáng giá vào lúc đó là tướng Ngô quang Trưởng, phải đi đến quyết định di tản bằng đường biển vì không thể nào phối trí lực lượng được nữa. Một số vượt được bằng tàu, nhưng hàng ngàn binh sĩ miền Nam đã bị các đơn vị Bắc quân tràn vào bắt sống.
Mũi tên màu đỏ hướng tiến của bắc quân 

    Trong cuốn Tháng Tư Đen, tác giả cũng cho độc giả thấy rằng sự cắt giảm viện trợ to lớn của Hoa kỳ đồng nghĩa với sự bất lực của miền Nam không thể nào dội bom các lực lượng diện địa của Bắc Quân đang hiện diện rõ ràng. Không quân Miền Nam cũng bất lực không đủ các phi tuần cần thiết cho đến lúc quân CS tràn ngập các sân bay.

 Vào tháng Giêng 1973, chúng ta nhớ TT Nixon có hứa rằng không lực Hoa kỳ sẽ giáng trả đích đáng nếu Bắc Việt vi phạm Thỏa Uóc Hòa Bình ký tại Ba lê. Nhưng sự kiện Watergate xảy đến, cùng lúc Quốc Hội dùng Luật Quyền Giới Hạn Chiến Tranh của Tổng Thống ký vào năm 1973 đã ngăn chận người kế vị là TT Gerald Ford không còn giữ được chữ TÍN cho VNCH.

    Dẫu rằng quân số miền nam có tới 763,000 vào năm 1975, nhưng khả năng cơ động của họ cũng chỉ còn 110,000 vào thời gian cuối cùng. Trong thời gian này, Bắc quân đã dồn được con số 350,000 quân cũng nhờ vào sự tái kiến trúc của Đường Mòn Hồ Chí Minh như một xa lộ thênh thang cùng các ống dẫn dầu chạy song song theo nó. 

Theo TS George Veith, trong tình trạng tuyệt vọng có các đơn vị nam quân đã kháng cự mãnh liệt chống lại sự tấn công ào ạt của bắc quân. Theo ước tính từ Hà Nội , phía Bắc đã mất tới 6000 sinh mạng trong những ngày cuối cuộc chiến. Quân miền Nam đã chiến đấu với một hi vọng mơ hồ có được một ranh giới ngưng bắn khác với quân xâm lăng cho tới giờ phút Sài gòn tuyên bố đầu hàng.

Có hơn 100,000 binh sĩ miền nam đồng minh của Hoa kỳ đã hi sinh trong những trận đánh cuối cùng, bao gồm bị xử tử tại chỗ hay bỏ mình do bị hành hạ trong các trại "cải tạo'.  Hơn nửa triệu người dân miền Nam đã bỏ mình khi cố gắng trốn chạy CS bằng thuyền .

Trong tương lai khi Hoa kỳ suy tính viện trợ cho A phú Hãn, cuốn "THÁNG TƯ ĐEN' nhắc nhở thế nhân chuyện đau lòng- cái giá của biết bao sinh mạng - khi bỏ rơi bạn, một đồng minh khốn khổ đang bị bao vây./.

MARK MOYAR

dịch và edit LỜI BẠT by ĐHL  

Mark Moyar là cố vấn quốc phòng và tác giả của "Chiến Thắng Bỏ quên: Cuộc Chiến Việt Nam , 1954-1965

SOURCE

11 ĐIỀU CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT VỀ THÀNH PHỐ SAN JOSE HOA KỲ

  1. San Jose là khu dân cư lâu đời nhất của tiểu bang California. Thành phố này được thành lập vào năm 1777 với tên gọi   đầu tiên là ...