LÒ GẠCH NGÓI TRƯƠNG KẾ
viên ngói móc thời trước 1972 gia đình ông Trương Kế còn giữ làm kỷ vật (hình dưới)
SỨC MẠNH HẠT NHÂN TỪNG Ở TRONG SỨC MẠNH VŨ TRỤ
KHI CON NGƯỜI ĐÃ LẤN SÂU VÀO THẾ GIỚI MẦU NHIỆM CỦA THƯỢNG ĐẾ VỀ "SỨC MẠNH VŨ TRỤ" ĐÓ LÀ SỨC MẠNH HẠT NHÂN NGUYÊN TỬ PHẢI CHĂNG NHÂN LOẠI ĐANG PHẢI TRẢ GIÁ?
Đại Tướng Cao Văn Viên sanh ngày 11/12/1921 Tại thành phố Vạn Tượng , Lào Quốc. Gia cảnh Vợ và 4 con, Ông có bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp tại trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.
- Tốt nghiệp Trường Quân Sự Cap Saint Jacque ( Vũng Tàu ) năm 1949
- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth
- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH
- Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH
- Chứng Chỉ Nhảy Dù Quân Lực Hoa Kỳ
- Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ
***
THẢ BOM Ở ĐỘ CAO
Trong những tháng cuối của cuộc chiến, BTTM (Bộ Tổng Tham Mưu) xử dụng phi cơ vận tải C-130A vào cuộc dội bom chiến thuật để thay vào hỏa lực của chiến đấu, oanh tạc cơ không hoạt động hữu hiệu được vì hỏa lực phòng không của địch. C-130 có thể chứa được 8 kiện hàng, mỗi kiện hàng chứa bốn thùng dầu phế thải. C-130 được hướng dẫn đến mục tiêu bằng máy truyền tin và thả những thùng dầu phế thải này từ độ cao 15 đến 20 ngàn bộ (5 đến 7 cây số). Chu vi sát hại của những thùng dầu này có đường kính 150 đến 450 mét.
Gần những ngày tàn của cuộc chiến, cộng sản tụ quân, và thiết lập các căn cứ hậu cần ngụy trang rất sơ sài, dễ quan sát từ trên không. Đây là những mục tiêu tốt cho vũ khí chiến lược có sức tàn phá mạnh. Cuối tháng 2, 1975, qua những lần viếng thăm Saigon của thứ trưởng quốc phòng Eric von Marbod và đại tướng Weyand, BTTM xin Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam những loại bom chiến lược không quân có thể xử dụng được. Loại bom Hoa Kỳ cung cấp cho Việt Nam là bom có phiến danh "Daisy Cutter,"nặng 15 ngàn cân. Không quân Hoa Kỳ dùng bom này để phá rừng, làm bãi đáp trực thăng cho cuộc chiến. Hoa Kỳ hứa gởi cho 27 quả bom và chuyên viên huấn luyện xử dụng bom trong vòng một tuần.
Giữa tháng 4, ba trái được chở đến, và cuối tháng 4, thêm ba trái nữa. Một chuyên viên Hoa Kỳ đi theo để hướng dẫn không quân Việt Nam gắn ngòi nổ và cách vận chuyển bom trên phi cơ. Nhưng người phi công HOa Kỳ có trách nhiệm lái máy bay thả bom thì không đến. Trong tình trạng khẩn trương của chiến trường--và sự nguy hiểm khi phải chứa loại bom này ở phi trường Tân Sơn Nhất hay Long Bình, BTTM và bộ tư lệnh Không Quân quyết định chọn một phi công kinh nghiệm cho nhiệm vụ thả bom. Chiếc C-130 và quả bom "Daisy Cutter" cất cánh vào lúc nửa đêm nhưng sau hai chục phút lại hạ cánh. Các sĩ quan không quân hữu trách và Bộ TTM vô cùng lo sợ cho tai nạn xảy ra khi phi cơ hạ cánh với quả bom còn trên phi cơ. Tuy nhiên phi cơ quay về vì một lý do kỹ thuật nhỏ. Phi cơ cất cánh lại sau ba mươi phút.
Vào một giờ sáng phi cơ thả trái "Daisy Cutter" đầu tiên cách Xuân Lộc sáu cây số về hướng Tây Bắc. Thành phố Xuân Lộc bị rúng động như gặp động đất; tất cả đèn điện bị tắt, và truyền tin của địch ngưng hoạt động--bộ chỉ huy sư đoàn 341 CSBV bị tiêu hủy. Tinh thần binh sĩ VNCH phẩn khởi. Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18 BB ở mặt trận Xuân Lộc hỏi, "BTTM còn nhiều loại bom đó không?" Tin đồn loan truyền nhanh ngoài quần chúng là chúng ta đang được trang bị bom nguyên tử. Cộng Sản Bắc Việt lên tiếng nguyền rũa VNCH và Hoa Kỳ đã xử dụng vũ khí tàn phá chiến lược.
Dùng bom phá rừng "Daisy Cutter" đánh vào các điểm tập trung quân của địch có kết quả tốt: tinh thần chiến đấu của ta phấn khởi. Nhưng vì thiếu nhiên liệu, ít bom, và khó khăn về bảo trì, sửa chữa, nên không quân chỉ bay được từ hai cho đến bốn phi vụ C-130 mỗi ngày.
Trong cuộc tổng tấn công của cộng sản năm 1972 chúng ta cũng bị thiệt hại nặng, nhất là ở Vùng I. Nhưng lúc đó BTTM có thời gian và phương tiện để bổ xung và củng cố lại tất cả các đơn vị bị thiệt hại. Và chỉ sau một tháng quân đội chúng ta sẵn sàng chiếm lại các phần đất mất vào tay địch. Chúng ta có được thời gian ở chiến trường vì có được trợ giúp của không lực chiến thuật của Hoa Kỳ, nhất là pháo đài bay B-52. Không nhờ các cuộc oanh tạc không ngửng của pháo đài bay yểm trợ quân ta, chúng ta chắc không giữ nổi KonTum hay An Lộc. Trong thời gian đó, B-52 được sử dụng đều đặn gần như phi cơ chiến thuật yểm trợ tiếp cận.
Trong khi ngoài chiến trường pháo đài bay B-52 cung cấp hỏa lực khủng khiếp, ở hậu phương vận tải cơ C-130, C-5, C141, hay C-130 chuyên chở vũ khí và quân cụ tiếp viện cho quân ta ngày đêm liên tục. Vào năm 1972 chúng ta không thiếu bất cứ gì--từ tiền cho đến vũ khí. Quân đội chúng ta lúc đó không lo về thiếu thốn; họ chỉ lo làm sao nhận và chuyển đồ ra mặt trận đúng theo lịch trình tiếp tế mà thôi.
Nhưng năm 1972 là một tương phản rất xa so với năm 1975; thay vào chỗ của pháo đài bay B-52, chúng ta chỉ còn được một trái bom 15 ngàn cân; vũ khí và quân cụ phải biến chế xử dụng. Đến giữa tháng 4, 1975, chúng ta đã xài hết quân dụng, vũ khí tồn kho, vào việc tái trang bị các đơn vị di tản từ hai Vùng I và II. Đến giờ phút muộn màng đó , dù chúng ta có nhận được 300 triệu mỹ kim viện trợ đi nữa, tình hình đã quá trễ.
Cao Văn Viên
nguồn
Sách
Cao văn Viên. Những Ngày Cuối Cùng của Việt Nam Cộng Hòa. 1st Ed. Nhà Sách Văn Bút Westminter, 2003 (trang 201-203)
CUỘC CHIẾN VN ĐÚNG
RA HOA KỲ VÀ ĐỒNG MINH ĐÃ CHIẾN THẮNG
NHỮNG KHÁM PHÁ BẤT NGỜ
Từ năm 1990 tôi (Mark Moyar) đã
quan tâm khảo sát về cuộc Chiến tranh Việt Nam lúc tôi là sinh viên về Khoa Lịch
Sử về Chiến Tranh Thế Giới (xung đột thế giới). Có vấn đề thu hút tôi nghiên cứu về với chủ đề
này đến từ tâm lý khinh miệt của các đồng
nghiệp, giáo sư và kể cả giới trí thức nói chung không chỉ dành cho chiến tranh
mà còn dành cho các cựu chiến binh trở về từ cuộc chiến. Riêng đối với tôi,
tôi cho rằng đó quả là một lỗi lầm sâu sắc khi cho rằng những thanh niên Hoa Kỳ
từng ra đi và liều mạng ở chiến trường Đông Nam Á lại bị coi khinh là kém xứng
đáng hơn những người đã sống ru rú cùng an vui ở nhà.
Vấn đề thứ hai làm
tôi phải đào sâu nghiên cứu do thói thường phần đông người ta cứ cho là Cuộc
Chiến VN không bao giờ có thể thắng được. Theo biên khảo của nhiều sách vở lịch sử dòng chính,
Hoa Kỳ không bao giờ có thể chiến thắng trong cuộc chiến do người Cộng sản Việt Nam luôn cống hiến hi sinh và sự hi sinh đó được cho là vượt trội hơn nhiều so với các đồng
minh Nam Việt Nam của Hoa Kỳ. Cũng vì lý do đó, nên không thể có chiến lược
thay thế hay hơn nào có thể đạt được thành công trong cuộc chiến, và do vậy người
Mỹ đã phải từ bỏ VNCH sau khi chịu thương vong và tổn thất quá lâu dài.
Lên
Cao Học, khi tôi tiếp tục theo đuổi nghiên cứu về Chiến Tranh Việt Nam, tôi bắt
đầu đặt câu hỏi về cả hai điều trính bày trên. Tôi đào sâu vào những kẽ hở sâu xa của cuộc chiến, từ đó tôi
đã thu được vô số thông tin chưa được khai thác về một hướng nghiên cứu khác.
(Tôi có được nhiều khám phá phong phú hơn đó là nhờ Merle Pribbenow, một nhà
ngôn ngữ học nghỉ hưu, ông đã tìm tòi và dịch rất nhiều tài liệu và lịch sử từ
phía miền bắc VN.) Những nguồn tư liệu của miền Bắc đã làm sáng tỏ thêm những tranh luận bao lâu
nay. Các tư liệu mới cho thấy miền bắc thật ra đã lãnh đạo các cuộc “kháng chiến”
tại miền Nam Việt Nam ngay từ những ngày đầu tiên dù Hà Nội từng thuyết phục và tuyên truyền cho phương Tây cả
tin rằng kháng chiến đó chỉ là ‘phong
trào địa phương’ thuần túy. Họ cũng bác bỏ quan điểm mà ai cũng tin là
chính phủ VNCH rõ ràng từng quay cuồng về mặt quân sự sau thời điểm Ngô Đình Diệm
bị ám sát vào tháng 11 năm 1963.
Có
những khám phá khác đó là kết quả nghiên cứu thêm các khía cạnh bị bỏ quên cho
đến nay của cuộc chiến đó. Chẳng có nhà sử học nào trước đó đã xem xét chi tiết
những gì diễn ra trong ván cờ “domino” lân cận khi Lyndon Johnson đưa ra quyết
định định mệnh vào năm 1965 là đưa bộ binh Hoa Kỳ vào miền nam VN. Trên thực tế,
ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Úc, Đài Loan, Hàn Quốc và
Singapore, các nhà lãnh đạo chống Cộng đã cảnh báo trước rằng sự sụp đổ của
VNCH sẽ khiến tất cả các quân domino Đông Nam Á sụp đổ theo. Họ đã đề nghị đưa
quân vào cuộc chiến với mục đích chống lại chủ nghĩa CS. Đột nhiên, lý thuyết
domino đó xem ra có vẻ hợp lý hơn nhiều.
CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN
Khi
tầm rộng của lãnh thổ trở nên rõ ràng,
tôi đã dự kiến và hoàn thành BA TẬP về Chiến Tranh VN. Tập thứ Nhất- kể từ năm 1954 đến năm 1965, tôi đã mất bảy năm để
hoàn thành. Tập thứ NHẤT này có tiêu đề “ CHIẾN THẮNG BỎ QUÊN Triumph Forsaken”, nó nhanh chóng bị xem là ‘CHỦ NGHĨA XÉT LẠI’. Lý do, ý nghĩa của tập này căn bản nó thách thức
tính chính thống đang ngự trị nước Mỹ. Phải kể ra đây, nó đi cùng với một số ít
sách khác trong danh mục đại loại như “A Better War” của Lewis Sorley và “Dereliction of Duty” của H. R.
McMaster.
Cuốn
Triumph Forsaken cho chúng ta hay rằng Hồ Chí Minh là một người Cộng sản có học
thuyết Cộng Sản. Giống như các đồng minh Liên Xô và Trung Cộng, ông ta là biết tuân thủ quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin rằng những người Cộng sản
nên hợp tác trong việc truyền bá cách mạng thế giới. Vào thời điểm TT Lyndon B. Johnson quyết định đưa bộ
binh tham chiến tại miền nam Việt Nam, Hồ
chí Minh và đồng minh CS đã gần đạt được mục tiêu là biến toàn bộ Đông Nam Á
thành Cộng sản, và rất có thể họ đã thành công nếu Hoa Kỳ không ra tay kịp. Sự can thiệp của Hoa Kỳ đã tạo ra khả năng
làm tiên đề cho một cuộc đảo chính chống Cộng sản ở Indonesia và sự tự tàn phá
của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, đồng thời giúp các quân cờ domino châu Á
khác tăng cường khả năng phòng thủ.
Tôi (Mark) cho rằng chiến tranh không chỉ cần
thiết mà còn có thể chiến thắng bằng các quyết định chiến lược tốt hơn thế. Sai lầm nghiêm trọng nhất là quyết định
của đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam đó là ông Henry
Cabot Lodge người đã xúi giục đảo
chính lật đổ chế độ ông Ngô Đình Diệm, làm sụp đổ bộ máy an ninh VNCH và gián tiếp giúp Bắc Việt bắt đầu tiến hành cuộc xâm lăng to lớn vào miền Nam.
Có thêm một sai lầm khác, quyết định của TT Johnson không đưa lực lượng bộ binh Mỹ vào Lào để chặn Đường mòn Hồ Chí
Minh, một động thái quá thiếu thông minh do điều đó có thể làm thay đổi cục
diện cuộc chiến và giảm nhu cầu về lực lượng Mỹ tại miền nam.
Cuốn
sách Triumph
Forsaken đã tạo ra nhiều cuộc bàn tán, thảo luận đáng kể trong giới học giả,
bao gồm một lượng lớn phản hồi, “ Chiến
Thắng Đã Thấy”. Có một số thảo luận mang tính xây dựng, nhưng phần lớn
trong số đó tẩy chay, nhỏ nhặt, thậm chí là nói xấu với người khác. Có điều đặc
biệt khi chuyện này đến tai các cựu chiến binh thuộc phong trào phản chiến cùng
những người được họ bảo trợ. Mặc dù một số ít giáo sư hoan nghênh, có không ít
thách thức chứng minh rõ ràng đối với tầng lớp hiểu biết nông cạn, thì cuốn
sách đó chỉ nhận lại sự thù địch tập thể
của số đông và kết quả gây thất bại cho
tôi nộp đơn xin vào làm một vị trí giảng viên hàn lâm viện đều bị chống phá
gay gắt.
Tôi
nói ra sự thật này không phải để được CHO NHẬN vào tầng lớp nạn nhân ngày càng nhiều của Hoa
Kỳ - những bất hạnh của tôi với giới học giả lại dẫn đến may mắn bất ngờ là được vào
dạy những sinh viên xuất sắc tại các trường đại học quân sự của Hoa Kỳ để
tiến hành nghiên cứu về các chủ đề quân
sự cần thiết và cấp bách nhất. Thay vào đó, nó chỉ ra những mối nguy hiểm đối
với xã hội của một học viện bị chính trị hóa. Khi một nghề chứng minh rằng biết phát triển dựa trên những ý tưởng mới
và tranh luận thay vì tẩy chay những người đưa ra những quan điểm chính thống
nhất định, thì nó không bao giờ tước đi cơ hội tiếp cận của sinh viên với những
suy nghĩ nghiêm túc và sẽ không khuyến khích phần còn lại của xã hội phớt lờ
nó. Cách duy nhất để có kết quả tốt đẹp
trong nghiên cứu quân sự là chứng tỏ rằng nó cởi mở với những thách thức và sẽ xem xét nghiêm túc những ý tưởng mới.
Thách thức trong các quan điểm
chính thống xung quanh Cuộc Chiến Việt Nam ngày nay cũng có vai trò cần thiết
hơn bao giờ hết. Khi tôi làm cố vấn nghiên cứu quân sự tại Afghanistan, Iraq và các vùng xung đột khác,
tôi đã thấy các chính trị gia, sĩ quan quân đội, nhà báo và nhà khoa học chính
trị tìm cách áp dụng các bài học của Cuộc
Chiến Việt Nam. Càng khảo sát, tôi càng tin rằng họ hiểu biết khá hời hợt về
lịch sử chiến tranh đó. Thêm vào đó, họ tỏ ra phụ thuộc quá nhiều vào lý thuyết
học thuật cũ từng mang lại cho họ những
kinh nghiệm tệ hại sai lầm - những kinh
nghiệm chiến tranh sai lạc càng mang tới nhiều cái chết cho đàn ông và đàn bà,
thậm chí có thể thua cuộc trong cuộc chiến tranh mới.
Thực tế trong nghiên cứu gần đây,
tôi tập trung vào các sự kiện lịch sử của năm 1967, trong chiến tranh VN và tôi
đã đưa ra ánh sáng những điều mới mẻ, quan trọng trong các cuộc hội luận tại
Hoa Kỳ các tác động quyết định do chiến tranh mang lại. Trong số những sự kiện
lý thú và hấp dẫn nhất của năm 1967 là sự
hối tiếc của chính quyền Johnson khi
Johnson quyết định không tạo ra sự tìm cách thảo luận công khai trong nước để tạo
ra làn sóng hay phong trào ủng hộ cho cuộc
chiến do sự cần thiết của cuộc chiến đáng cần phải có. Các quan chức Hoa kỳ giờ đây mới nhận thức rằng sự thiếu nhiệt tình của
công chúng đối với cuộc chiến càng khuyến khích đối phương tin rằng Hoa Kỳ cuối
cùng sẽ từ bỏ đồng minh, và do đó Bắc Việt Nam không có lý do gì để bỏ cuộc.
MỘT CUỘC CHIẾN KHÔNG THỂ CHIẾN THẮNG NẾU NGƯỜI DÂN HOA KỲ KHÔNG BIẾT VÀ KHÔNG CẦN BIẾT LÀ ĐANG CÓ CHIẾN TRANH
Cố
ngoại Trưởng Dean Rusk nhận xét vào tháng 10 năm 1967 rằng, “Chính phủ đã đưa
ra một quyết định có chủ ý là không tạo ra tâm lý chiến tranh ở Hoa Kỳ…” bởi vì
nó “quá nguy hiểm cho đất nước Hoa Kỳ ” Johnson, Dean Rusk và các quan chức
khác đã lo sợ rằng cơn sốt chiến tranh sẽ làm suy yếu các chương trình nội địa
như Chương Trình Great Society và
làm gia tăng căng thẳng với Liên Xô. Nhưng rồi, Ông Rusk thừa nhận, “có thể đây là một sai lầm; có lẽ sẽ tốt hơn
nếu thực hiện các bước để xây dựng ý thức về một quốc gia đang có chiến tranh.”
Suốt
năm 1967, các cố vấn tại Bạch Ốc và các nhà lãnh đạo nước ngoài đã nhiều lần
thúc giục TT Johnson thay đổi hướng đi, nói với công chúng Mỹ lý do tại sao Hoa
Kỳ có mặt tại miền nam Việt Nam và những gì họ đang cố gắng đạt cho được. Nhưng
TT Johnson không thể tự mình làm điều đó, ngay cả khi ông ngày càng nhận ra những
hậu quả tai hại của sự im lặng của ông. “Nếu lịch sử buộc tội chúng ta vì sự kiện
Việt Nam,” TT Johnson thừa nhận vào mùa thu 1967, “thì do tiến hành một cuộc chiến mà không cố gắng khơi dậy lòng yêu nước.”
Trong trường hợp thiếu sự cổ vũ khởi
xướng của tổng thống, sự ủng hộ của công chúng Hoa kỳ đối với chiến tranh VN đã
giảm sút trong suốt năm 1967. Như các quan chức chính quyền từng lo sợ, sự suy yếu quyết tâm của Mỹ lại củng cố quyết
tâm kiên trì của Bắc Việt. Hà Nội rõ ràng đã từ chối mọi lời đề nghị đàm
phán hòa bình của Mỹ, CS Hà Nội dự đoán
rằng cuộc tấn công Tết Mậu Thân sắp tới sẽ phá hủy những gì còn lại của ý chí người
dân Hoa Kỳ.
Nói cách khác, việc công chúng
quay lưng lại với chiến tranh VN là điều không thể tránh khỏi; đúng hơn, đó là
kết quả của sự thất bại của các nhà hoạch định chính sách trong việc giải thích
và thuyết phục người dân Mỹ ủng hộ nó.
Nửa thế kỷ sau, hôm nay với việc
đất nước Hoa Kỳ đang vướng vào hai cuộc chiến tranh khác biệt, kéo dài và khả
năng những cuộc xung đột khác có thể bùng phát bất cứ lúc nào, Chiến Tranh VN là một bài học mà các nhà lãnh đạo hiện tại của
chúng ta nên ghi nhớ.
Mark
Moyar
ĐHL Dịch
thuật và tựa đề
Mark Moyar, giám đốc Trung tâm Lịch
sử Quân sự và Ngoại giao, là tác giả của cuốn sách “Oppose Any Foe: The Rise of
America’s Special Operations Forces” và “Triumph Forsaken: The Vietnam War,
1954-1965.”
Nguồn
Opinion | Was Vietnam
Winnable? - The New York Times (nytimes.com)
TS George
J. Veith là tác giả 4 cuốn sách về Chiến tranh Việt Nam, trong có các cuốn liên
quan đến Chiến Tranh VN như:
-Code
Name Bright Light: The Untold Story of U.S. POW Rescue Efforts during the
Vietnam War (1998),
-Black
April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975 (2012),
-
Drawn Swords in a Distant Land: South Vietnam’s Shattered Dreams (2021)
Ông
viết nhiều về Chiến tranh Việt Nam, diễn thuyết tại nhiều hội nghị cũng như điều
trần về vấn đề POW/MIA trước Quốc hội Hoa Kỳ. Cuốn sách thứ tư của ông là một lịch
sử chính trị, xã hội và kinh tế về sự trỗi dậy và sụp đổ của miền Nam Việt Nam.
Ông tốt nghiệp PhD tại Đại Học Monash tại Melbourgh, Victoria Úc Đại Lợi
1. San Jose là khu dân cư lâu đời nhất của tiểu bang California. Thành phố này được thành lập vào năm 1777 với tên gọi đầu tiên là ...